Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ"Thu Ẩm"

Phân tích bài thơ"Thu Ẩm"

 
3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
421
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Bài thơ "Thu Ẩm" là một tác phẩm của nhà thơ Hàn Mặc Tử, nằm trong tập thơ "Trái tim khóc" xuất bản năm 1925. Bài thơ mang đậm tâm trạng buồn bã, lạc lõng và tương tác giữa những cảm xúc của tác giả với thiên nhiên.

Bài thơ được chia thành ba phần, mỗi phần tả lên một khung cảnh thu khác nhau. Phần đầu tiên miêu tả cảnh thu trên núi, với những hình ảnh như "mây trắng trôi qua", "gió thu lạnh lẽo", "sương khói bay lên". Từng hình ảnh này tạo nên một không gian u tối, lạnh lẽo, phản ánh tâm trạng cô đơn và buồn bã của tác giả.

Phần thứ hai của bài thơ tả cảnh thu trên sông, với những hình ảnh như "sương mờ phủ trên sóng", "cánh cò bay đi", "cỏ hoang mờ mịt". Cảnh sông trở thành một biểu tượng cho sự lạc lõng và cô đơn của tác giả. Những hình ảnh này cũng tạo nên một không gian u tối, mờ mịt, tương tự như phần đầu của bài thơ.

Phần cuối cùng của bài thơ tả cảnh thu trong lòng người, với những hình ảnh như "lá thu rơi", "hoa thu tàn", "trái tim khóc". Tác giả sử dụng những hình ảnh này để tả lên tâm trạng buồn bã, cô đơn và mất mát của mình. Từ "trái tim khóc" cũng thể hiện sự đau đớn và tuyệt vọng trong tâm hồn tác giả.

Tổng thể, bài thơ "Thu Ẩm" của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm mang tính biểu cảm cao, tả lên tâm trạng buồn bã, cô đơn và lạc lõng của tác giả thông qua những hình ảnh thu tối tăm, u ám. Bài thơ cũng thể hiện sự tương tác giữa tâm trạng của tác giả và thiên nhiên, khi tác giả tìm thấy sự đồng cảm và phản ánh của thiên nhiên đối với tâm trạng của mình.
1
1
Tạ Nguyên Đức
26/10/2023 19:48:59
+5đ tặng

Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.

Dáng thu trong Thu vịnh thăm thẳm, xa vời, quen mà lạ. Trời thu thì xanh ngát những mấy từng cao; khóm tre thu nhỏ lại trong hinh ảnh cần trúc, sương như khói phủ thành tầng trên mặt nước, song thưa để mặc bóng tràng vào, hoa năm nay bỗng thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, mơ hổ… Hồn thu như lắng chìm vào bôn trong, ẩn chứa ở chiều sâu.

Dáng thu, hồn thu ở bài Thu điếu lại chất chứa trong sự thu nhỏ và lặng im của cảnh vật: chiếc thuyền câu bé tẻo teo, nước biếc trên mặt ao chỉ gợn tí, lá vàng khẽ rơi vèo không thành tiếng, tiếng cá đớp động rất nhẹ dưới chân bèo. Tất cả đều im lìm, tĩnh mịch. Tưởng chừng như ông câu cũng hoá đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong sự chờ đợi mỏi mòn giữa không khí yên lặng gần như tuyệt đối.

Trở lại với hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là có ý so sánh đế nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này, ở đây, dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ có khác.

Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị .

Hai câu đề:

Ba gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.

Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ xuống một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te thi đã rõ ra là lụp xụp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo, ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập loè lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.

Hai câu thực:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.

Hai câu luận:

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vy cũng đỏ hoe.

Nguyễn Khuyến tả cảnh trời và cảnh mình. Dường như bầu trời và con người đều bị một thế lực vô hình nấo đó làm cho biến đổi: Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu ? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ ai trong câu thơ lấp lửng một mối hoài nghi lấp lửng nhưng không vô ý. Đây cũng là biểu hiện tâm trạng của nhà thơ chăng? Hay là nó cũng cùng một mạch với cảm nhận hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái và nghe tiếng ngỗng văng vẳng trên không mà giật mình tự hỏi là ngỗng nước nào ? Tâm tư nhà thơ trĩu nặng trước cảnh đất nước bị lũ giặc ngoại xâm giày xéo mà mình thì đau đớn, day dứt khồng nguôi.

Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy, Chỉ dăm ba chén đã say nhè. Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.

Âm thanh bài thơ cũng theo điệu ấy. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở các từ: le te, lập loè, loe, đỏ hoe, say nhè. Tất cả các từ quy vào âm chủ đạo là e: từ nhè, say nhè mà ra rồi nhoè ra thành nguyên âm đôi oè (lập /oè), oe (loe, hoe), các vần này cũng lảo đảo say theo, say mạnh hơn. Cảnh vật cũng như say: ánh sáng đom đóm hoá lập loè, bóng trăng chập chờn loe ra theo làn sóng, mắt người tự nhiên cũng đỏ hoe. Trong câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l nối tiếp nhau, càng làm tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chĩ ở bóng trăng mà ở cả mặt ao, làn nước và từ đó lan toả ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ say nhè.

Nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu vắng. Sau dăm ba chén, hơi men đã khơi dậy tâm tư. Nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn nhà thơ thấm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu ẩm là ở đó. Nhà thơ buồn bã, day dứt không nguôi trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cả cảnh vật đêm thu. Đã có lúc không uống rượu và tâm trạng dường như vui hơn, cụ Tam Nguyên tự cười mình và cũng thấy mình chuếnh choáng: Khấp khểnh ba chân dở tĩnh say kia mà.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Tuấn Nguyễn
26/10/2023 19:52:02
+4đ tặng

Ba gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy,

Độ năm ba chén đã say nhè.

"Rượu", "hoa", "trăng"... là những thú tiêu khiển thanh cao của các tao nhân mác khách xưa nay. Bài thơ "Nâng chén, hỏi trăng" của Lý Bạch rất được nhiều người yêu thích:

Người nay chẳng thấy trăng thời trước

Người trước, trăng nay soi đã từng

Người trước, người nay như nước chảy

Cùng xem trăng sáng đều thế đấy

Chỉ ước vui ca thưởng chén quỳnh

Be vàng, trăng sáng vào rọi mãi".

(Tương Như dịch)

Tam Nguyên Yên Đổ cũng có nhiều câu thơ rất đậm đà ý vị nói về rượu:

Khi vui chén rượu say không biết

Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa

(Cáo quan về ở nhà)

Em cũng chẳng no mà chẳng đói,

Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu

(Lụt, hỏi thăm bạn)

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua...

Và còn có Thu ẩm - mùa thu uống rượu. Hình ảnh trung tâm của bài thơ là "Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe". Câu thơ đã diễn tả trạng thái ngà ngà say... đến "say nhè": "Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy - Độ năm ba chén đã say nhè". "Say nhè" là say êm, say nhẹ, say rồi ngủ quên đi lúc nào chẳng biết. Chẳng phải là say bét nhè, bê tha. Nguyễn Khuyến rất thanh cao, chỉ có "năm ba chén" nhỏ, đúng là cái thú "Khi vui chén rượu say không biết" hoặc "Khi hứng uống thêm năm chén rượu - Khi buồn ngâm láo một câu thơ" (Đại lão)

Trong sáu câu thơ đầu thì đã có đến năm câu đều có màu sắc thể hiện một cái nhìn đếm thu lúc ngồi uống rượu một mình. Có màu đen thẫm mịt mùng của đêm sâu "ngõ tối". Có ánh sáng "lập loè" của bầy đom đóm. Có sắc trắng nhờ của "màu khói nhạt" nhẹ bay "phất phơ" trên lưng giậu cúc tần trước sân của năm gian nhà cỏ bình dị. Có màu vàng của bóng trăng loe tan ra "lóng lánh" trên làn ao "sóng biếc theo làn hơi gợn tí" trong veo. Có da trời màu "xanh ngắt" rất đẹp. Và sắc "đỏ hoe" của đôi mắt ông lão, của thi nhân đang uống rượu âm thầm.

Cảnh vật có đường nét cao, thấp, xa, gần, mỏng và nhẹ. Độ "thấp le te" của ngôi nhà cỏ năm gian. Độ sâu của đêm khuya và "ngõ tối" nơi làng quê vùng đồng chiêm trũng. Độ nhẹ vờn bay "phất phơ" của màu khói nhạt. Chiều đo "thấp" của "lưng giậu", nét gợi của "làn ao", vòng tròn của "bóng trăng loe" trên mặt "ao thu lạnh lẽo", độ xa, cao, rộng của bầu trời, chân trời, độ hõm của đôi mắt "đỏ hoe" đã "say nhè".

Màu sắc ấy, đường nét ấy qua cái nhìn chập chờn, tỉnh say say tỉnh của nhà thơ. Màu sắc đường nét ấy là màu sắc của tâm tưởng, là đường nét của tâm trạng. Còn đâu nữa, chén rượu tri âm của đôi bạn "đăng khoa ngày trước?".

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân?

Nay nhà thơ chỉ còn uống rượu trong đêm sâu, âm thầm, lặng lẽ và cô đơn. Cao Bá Quát nửa đầu thế kỷ XIX chỉ uống rượu "tiêu sầu". Còn Nguyễn Khuyến "đêm thu nay’’ uống rượu cho vơi đi nỗi buồn thế sự "Rằng quan nhà Nguyễn nhà Nguyễn cáo về đã lâu" uống rượu để thao thức, thao thức nên uống rượu để vơi đi nỗi đau cuộc đời: "Có phải tiếc xuân mà đứng gọi - Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ" (Cuốc kêu cảm hứng). Vợ chết, con mất, bạn chí thân qua đời, tuổi già, ốm đau, Nguyễn Khuyến mượn "năm ba chén rượu” để vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn:

Đời loạn đi về như hạc độc,

Tuổi già hình bóng tựa mây côi

(Gửi bạn)

Hình như chén rượu của nhà thơ đã tràn đầy nước mắt? Hai câu kết ý tại ngôn ngoại. Thấm một nỗi buồn mênh mông. Người đọc vô cùng xúc động khi thấy nhà thơ "say nhè" nằm ngủ:

Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy,

Độ năm ba chén đã say nhè

Cả bài thơ, ngoài đầu đề Thu ẩm ra, chẳng có một chữ thu nào nữa, thế mà câu thơ nào cũng chứa đựng một tình thu, và hồn thu man mác, dào dạt. Đó là chất thi vị độc đáo của bài thơ này. Các từ láy: "le te", "lập loè", "phất phơ", "lóng lánh"… với các từ "rượu", "chén", "say nhè" - cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến vô cùng tinh luyện, hình tượng và biểu cảm.

Trước Nguyễn Khuyến gần 500 năm, Nguyễn Trãi có câu thơ:

Sách một hai phiên làm bầu bạn

Rượu năm ba chén đổi công danh

(Tự thán - 10)

Sau khi Nguyễn Khuyến mất gần nửa thế kỷ, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng có câu thơ nói về rượu: "Du kích quy lai tửu vị tàn''. (Thu dạ, 1948)

Đó là những chén rượu một thời, cũng là những chén rượu một đời. Chén rượu của các thi nhân - chén rượu thanh cao và sang trọng.
Thi mà ra cái này thì hết cứu

0
0
Layla
26/10/2023 19:54:34
+3đ tặng

Hình như trong thi ca - nhắc đến mùa thu là nhắc đến nỗi buồn - nỗi buồn trải ra với đầy đủ cung bậc: từ buồn thương, buồn nhở, buồn man mác... Nhưng với mỗi thi nhân, nỗi buồn lại gắn với một tâm sự khác nhau. Đến với Thu ẩm của Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam - người đọc lại được chiêm ngưỡng một bức tranh thu với với đủ sắc màu và âm thanh dưới cái nhìn, dưới con mắt của một thi nhân, của một con người đang đơn độc nâng chén với cuộc đời. Nhan đề “Thu âm” - mùa thu uống rượu - là nhãn tự, là nơi nói lên nội dung chính của bài thơ.

Có thể nói, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chỉ có bài Thu điếu là nhất quán về không gian, về thời gian. Còn ở bài Thu vịnh và Thu ẩm khó có thể xác định một không gian, thời gian cụ thể nào. Có thể nhà thơ Nguyễn Khuyến uống rượu làm thơ trong một đêm thu nào đó nhưng cảnh thu không nhất thiết là cảnh đêm thu. Khi cái say men đã làm thi nhân hơi chếnh choáng thì các hình ảnh lần lượt hiện về trong tâm trí dệt nên bức tranh thu đa dạng.

Vẫn bằng bút pháp hiện thực quen thuộc, bằng lời thơ bình dị, Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng cảnh:

Năm gian nhà cỏ thấp le te
    Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.

Nơi nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải là thư phòng, thư sảnh của lầu son gác tía nào mà chỉ là ngôi nhà cô đơn sơ bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng rơm rạ “thấp le te”. Từ nơi ấy thi nhân nhìn ra chỉ thấy màn đêm sâu thẳm. Đó là một đêm tối gợi lên chiều sâu không cùng, tối tăm, ánh sáng đom đóm mới lập lòe như thế. Trong đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu, những cảnh thu ở nhiều nơi cứ lập lòe ẩn hiện trong tâm trí của thi nhân. Đó là cảnh chiều thu quê hương yên ả, đầm ấm:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.

Đó là cảnh đêm trăng mùa thu được cảm nhận từ phía ao nhà: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”. Đó là cảnh mùa thu trong một ngày nắng đẹp: “Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt”. Cảnh trong tâm tưởng mà rất thực, rất bình dị. Đó là cảnh quê, hồn quê từ lâu đã thấm sâu, hòa nhập vào tâm hồn Nguyễn Khuyến để khi làm thơ thi hứng lại gọi về. Trăng mùa thu là thi liệu quen thuộc nhưng thi liệu ấy lại trở nên mới mẻ sinh động lạ thường khi được nhìn qua đôi mắt của thi sĩ làng quê Yên Đổ. Nhà thơ Xuân Diệu cho đây “là một câu thơ hiếm có”, một phát hiện của nhà thơ có tài: “... câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt nước ao sáng lóe ra, bốn chữ khả năng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ánh bắn đi; từ loe, âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe) như cái ao chẳng hạn”. Xuân Diệu đã phân tích rất tinh tế khả năng gợi tả của ngôn ngữ ở phương diện ngữ âm. Nhưng để có cái hay, cái đẹp, cái độc đáo ấy trước hết là ở cách nhìn, ở hướng tiếp cận. Thi sĩ bao đời nay miêu tả trăng thu. Nhìn trăng qua ao mới có vẻ đẹp lóng lánh như thế, trăng từ trong ao hắt ánh sáng lên mới tạo ra những chùm sáng lòe như thế. Một thi sĩ tài năng thì không có đề tài nào là mòn cũ, không có câu chữ nào là mất đi sức sống.

Thu ẩm là mùa thu uống rượu mà mãi cuối bài thơ mới thấy hình ảnh người uống rượu xuất hiện:

     Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
         Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.

Đó là chân dung tự họa của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong những năm tháng ẩn dật ở quê nhà. Nỗi niềm gì đang xót lòng xót dạ người nho sĩ ấy đến mức mắt đỏ hoe, rớm máu? Từ đôi mắt, người đọc nhìn thấu nỗi buồn đau của cụ Tam Nguyên. Đã từng đỗ đầu thi hương, thi hội đã từng được vua ban chức này tước nọ mà Nguyễn Khuyến không chút đắc ý về cuộc đời mình. Có lúc ông còn thấy việc học cũ là viển vông vô ích, việc làm quan trong thời buổi ấy là nỗi nhục. Tưởng là trở về vườn xưa chốn cũ để thanh thản nỗi lòng, nào ngờ đâu lòng vẫn nặng buồn đau:

Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp.
                                          (Trở về vườn cũ)

Để dịu bớt cơn đau, để khuây khỏa nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã làm bạn với túi thơ, bầu rượu. Ở Trung Quốc có nhà thơ Lí Bạch làm nhiều bài thơ về rượu, ở nước Nam ta không có ai nói về rượu trong thơ nhiều như Nguyễn Khuyến. Nhà thơ hay uống rượu nhưng chả uống được nhiều. Người ta uống rượu để mà quên, để mà say còn Nguyễn Khuyến uống rượu lại càng nhớ, lại càng buồn. Cái tôi trữ tình của nhà thơ trong bài Thu ẩm bề ngoài thì có vẻ say nhè nhưng thực chất là rất tỉnh. Say nhè để quên mọi chuyện nhưng nhà thơ không quên được nỗi đau buồn về non sông đất nước.

Bức tranh thi nhân uống rượu trong đêm thu khép lại với những vần thơ đầy xúc động. Có bài thơ, ngoài nhan đề Thu ẩm - chẳng có thêm một chữ “thu” nào, thế mà hồn thu, hơi thu lan tỏa khắp không gian, thấm vào vạn vật và dư âm thu vẫn lan tỏa mãi trong lòng người đọc. Với Thu ẩm, nhà thơ đã viết nên một áng thơ mang đậm dấu ấn và âm hưởng riêng của một Nguyễn Khuyến tài tình và tinh tế, qua đó bộc lộ tâm sự, nỗi buồn về vận nước. Niềm yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu hiện thâm trầm, kín đáo mà không kém phần sâu sắc.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×