Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ (trào phúng)

viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ (trào phúng). Mình đang cần gấp!
3 trả lời
Hỏi chi tiết
217
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Tác phẩm văn học thơ trào phúng đã từ lâu trở thành một hình thức nghệ thuật phổ biến, được sử dụng để châm biếm, mỉa mai hoặc lên án những vấn đề xã hội, chính trị, văn hóa và tâm lý của con người. Tác phẩm này thường mang tính chất hài hước, sắc bén và thường được viết bằng ngôn ngữ hài hước, đôi khi là sử dụng các từ ngữ khó hiểu, ngôn ngữ lóng hoặc ngôn ngữ đặc biệt để tạo ra hiệu ứng trào phúng mạnh mẽ.

Một ví dụ điển hình về tác phẩm văn học thơ trào phúng là bài thơ "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Tuy "Truyện Kiều" không phải là một tác phẩm trào phúng mà là một tác phẩm văn học trữ tình, nhưng trong đó có một số đoạn thơ trào phúng được sử dụng để châm biếm, mỉa mai và lên án những vấn đề xã hội và tâm lý của con người.

Một đoạn thơ trào phúng nổi tiếng trong "Truyện Kiều" là đoạn thơ mô tả về nhân vật Thúy Kiều:

"Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng."

Trong đoạn thơ này, Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ trào phúng để chỉ trích những người chỉ biết quan tâm đến tài năng và vận mệnh, bỏ qua những giá trị tình cảm và lòng nhân ái. Nguyễn Du cho rằng, trong cuộc sống, những điều quan trọng không chỉ là thành công và vinh quang, mà còn là lòng nhân ái và tình yêu thương.

Tác phẩm văn học thơ trào phúng không chỉ là một hình thức giải trí mà còn là một công cụ để thể hiện quan điểm và ý kiến của tác giả về xã hội và con người. Tác phẩm này thường mang tính chất phê phán và góp phần vào việc thay đổi và cải thiện xã hội.
2
1
Tạ Nguyên Đức
04/12/2023 19:36:58
+5đ tặng

Nhà thơ Tú Xương nổi tiếng với các tác phẩm trào phúng. Một trong số đó có thể kể đến bài thơ Thương vợ.

“Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong số những bài thơ của Tú Xương viết về bà Tú. Tác giả đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ tần tảo, nhẫn nhục và giàu đức hy sinh. Nhà thơ đã đứng ở khía cạnh của một người chồng - một người đàn ông để bày tỏ niềm cảm thông với những người phụ nữ:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Bốn câu thơ đầu đã giới thiệu về công việc của bà Tú. “Buôn bán” vốn là công việc vô cùng vất vả, không lúc nào được nghỉ ngơi. Cụm từ “quanh năm” gợi ra rằng công việc này diễn ra hằng ngày, lặp lại hết năm này đến năm khác. Bà Tú tần tảo sớm hôm để “nuôi đủ năm con với một chồng” - việc tách riêng “một chồng” dường như thể hiện được một hoàn cảnh thật éo le. Người chồng đáng ra phải là người chèo chống để nuôi cả gia đình. Vậy mà ở đây, người vợ phải một mình mưu sinh nuôi chồng nuôi con. Điều này làm bộc lộ nên tiếng cười mỉa mai, chua xót của chính tác gỉa. Họ không chỉ phải chịu đựng những ràng buộc phong kiến, không thể kêu ca, than thở mà chỉ biết im lặng chấp nhận, chịu đựng qua từng ngày: “Năm nắng mười mưa chẳng quản công”.

Đến hai câu thơ cuối cùng đọc lên giống như là một lời tự vấn của chính nhà thơ:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.

Tiếng “cha mẹ” vang lên sao mà chua xót, là tiếng chửi thói đời đấy mà cũng giống như một lời tự trách bản thân vô dụng để rồi khiến người vợ của mình phải chịu đựng khổ cực.

Qua bài thơ này, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh bà Tú cũng chính là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa: những con người tần tảo, chịu khó và giàu đức hy sinh.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Little Wolf
04/12/2023 19:37:35
+4đ tặng
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - Lai Tân

“Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tố ”trữ tình” và “hiện thực”,”Lai Tân” là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là .một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.

Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:

“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền

Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”

Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có “thể thẳng tay đập vào mặt bọn thống trị những cái tát giáng trời:

“Ở phố Hàng Song thật lắm - quan

Thành thì đen kịt, Đốc thì lang

Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố

Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn”

(Lắm quan)

Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thống trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những hống hách bên trong của bộ máy thống trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả “Lai Tân” đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: “Ban trưởng”,”cảnh trưởng”, “huyện trưởng cái chức “trưởng’ của họ khá oai vệ, đầy uy lực, những việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chừ “trường” trong ba câu thơ đầu là sự “cố tình” dùng phép lặp của Bác trong việc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mồi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một “ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Bức thứ hai là hình ảnh “cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải”.

Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo “công lý’ để làm những việc “bất công ly’ một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức “trưởng” của chúng đã có, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến “ban trưởng”, “cảnh trưởng” thiết tưởng đó là những người cầm cân mẫu mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc.

Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sống bình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những “đỗ phạm’. Cái nghịch cảnh “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai” là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.

Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm “chong đèn lo công việc”. Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với “công việc” nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật “nhị tứ lục phân minh” ở một chữ “công”.

Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ “công” đó. Huyện trưởng “lo công việc” hay là mượn “việc công” để tạo một tấm bình phong che cho mình “lo việc riêng”, hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ “đăng” chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chân dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thống trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chính quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung). Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!

“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả “Lai Tân” đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. "Trời đất Lai Tân vẫn thái bình". Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ “vẫn” cũng đủ “điếng người’. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng nói kéo dài bắc đầu từ chữ “vẫn” ấy.

Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao 1 quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lai Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng đó chỉ là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thống trị chế độ Tưởng Giới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng.

Với “nghệ thuật vẽ đường tròn đồng tâm” tác giả “Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà “dột từ nóc dột xuống” chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái “loạn” của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được “trang trí” bằng sự “thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân “thái bình” như thế nào.

Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây. Hai chữ Lai Tân dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên “như xưa”. Nhưng “như xưa” ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thông; “như xưa” là không hề đổi thay, là duy trì những cái xấu xa bỉ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tế cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải “quần lèn” ở nhát đòn quyết định có tên là “thái bình”.

Không phải chỉ ở “Lai Tân” mà ở rất nhiều bài thơ khác của “Nhật kí trong tù Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như “Trảng binh gia quyến”, “Đổ”, “Đổ phạm’. Đó là “những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đã đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ” của chế độ ấy khiến “ta cười ra nước mắt”. Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đậm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.

Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế: “Tri phủ Xuân Trường được mấy niên Nhờ trời hạt ấy cùng bình yên”. (Đưa ông phủ)

Tiếng cười dân tộc đã thấm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thấy nó sâu cay. “Lai Tân” là một bài thơ cũng nằm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đấu sắc lạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác.

Little Wolf
chấm điểm ạ ><
0
0
pé nấm
04/12/2023 19:46:26
+3đ tặng

Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là một tập nhật kí bằng thơ, và được viết trong thời gian hơn một năm trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tập thơ này ban đầu được Bác viết cho chính mình, với mục đích chính là giữ cho tâm hồn an ổn và tinh thần mạnh mẽ trong thời gian Bác bị giam cầm, và cũng là để tự tìm động lực cho ngày Bác được tự do, như đã ghi ở bài “Khai quyển đầu cuốn sổ tay.”

Lai Tân là bài thơ thứ 97 trong tập nhật kí này, và Bác đã viết nó sau khi bị chuyển từ Thiên Giang đến Lai Tân. Bức tranh hiện thực trong bài thơ này, mặ despite sự khách quan của nó, thể hiện rõ sự mỉa mai, châm biếm và phê phán của Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị tại Lai Tân, và đồng thời cả xã hội Trung Quốc thời kỳ đó.

Phiên âm chữ Hán:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.

Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bài thơ này tạo ra một bức tranh sắc nét về hiện thực trong nhà tù Lai Tân và một phần nhỏ của xã hội Trung Quốc thời điểm đó. Bức tranh này được Hồ Chí Minh phản ánh một cách sống động, sử dụng một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa.

Bài thơ thành công chủ yếu nhờ vào nghệ thuật châm biếm sắc sảo và độc đáo, kết hợp với giọng điệu tự sự và trữ tình, cùng với một cấu trúc chặt chẽ và hợp lý. Cấu trúc của bài thơ gồm hai phần, nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật. Phần thứ nhất bao gồm ba câu, trong khi phần thứ hai chỉ có một câu duy nhất. Ba câu đầu tiên đơn thuần kể chuyện, trong khi câu thứ tư là điểm nút, là nơi tất cả tư tưởng của bài thơ được tập trung và nó làm bung vỡ tất cả các ý châm biếm và mỉa mai của Hồ Chí Minh đối với đám quan chức thuộc giai cấp thống trị.

Phần thứ nhất của bài thơ “Lai Tân” của Hồ Chí Minh đã khắc họa một cách sắc sảo thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng.” Trong đó, ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc hàng ngày, trong khi đánh bạc bên ngoài bị quan bắt tội. Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn và hút thuốc phiện. Những người này đại diện cho chính quyền và luật pháp, nhưng lại hoàn toàn vi phạm pháp luật. Điều này đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành biểu tượng cho cả xã hội Trung Quốc thời kỳ đó, khi quan trên thảnh thơi, vô trách nhiệm và tham lam, trong khi cấp dưới chỉ lo xoay xở kiếm ăn, không quan tâm đến các tệ nạn đang hoành hành. Hơn nữa, những hành vi tham lam và nhũng nhiễu của họ thậm chí còn đóng góp “tích cực” vào việc gia tăng tệ nạn xã hội.

Ba nhân vật này hoạt động trong một màn hài kịch câm, và cả ba đang đóng vai trò “nghiêm túc” trong khung cảnh thái bình (??!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ ngắn gọn và hàm súc này tố cáo tình trạng hỗn độn, bát nháo của xã hội Trung Quốc thời điểm đó, mặ despite sự khách quan của nó.

Phần thứ hai của bài thơ, câu cuối cùng, chứa nhận xét thâm thúy và trào lộng của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng bộ máy cai trị tại Lai Tân. Đọc đến đoạn này, người ta có thể trông đợi một lời lên án mạnh mẽ. Tuy nhiên, tác giả đã không làm như vậy, mà thay vào đó, ông đưa ra một câu nhận xét có vẻ rất khách quan: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.” Câu này thực sự đánh đồng với tình trạng thối nát của những quan chức ở Lai Tân, và nó thể hiện một sự mỉa mai, châm biếm sâu sắc.

Hiệu quả của câu thơ này là gì? Nó làm cho tình trạng thối nát của những quan chức ở Lai Tân trở nên bình thường đến mức nó trở thành bản chất của họ. Bản chất này thậm chí đã trở thành một phần “nề nếp” được chấp nhận trong xã hội từ lâu.

Câu kết luận trong bài thơ, dường như rất bình thản, lại ẩn chứa một lời châm biếm, mỉa mai và tiết lộ bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Từ “thái bình” có thể được coi là “thần tự,” “nhãn tự” của bài thơ này. Điều này cho thấy tác giả đã sử dụng một cách tài tình từ “thái bình” để lôi kéo tất cả các hoạt động bất hợp pháp và thối nát ra ánh sáng, và châm biếm bản chất của họ Tưởng Giới Thạch đang lẩn trốn sau vẻ ngoài thái bình. Bằng cách này, câu thơ “Lai Tân” in đậm bút pháp nghệ thuật của Hồ Chí Minh, tạo nên một tác phẩm thơ châm biếm sắc sảo và đầy ẩn ý.
 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo