Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
"Những người con gái con trai
Đẹp hơn hoa hồng cứng hơn sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt dành cho ngày gặp mặt"
Hơn lúc nào hết, tình yêu quê hương đất nước là huyệt thần kinh nhạy bén, là cảm hứng, lẽ sống cao đẹp nhất của con người Việt Nam. Ta đã từng gặp gỡ hình ảnh đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, một đất nước cổ kính, mang hồn dân gian Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm hay sự hóa thân của đất nước trong dòng sông xanh đầy ắp kỷ niệm trong thơ Tế Hanh. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được một cách nói riêng để chương thơ “Đất nước” của ông đem đến cho bạn đọc những rung cảm mới về quê hương đất nước: đất nước của nhân dân.
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Lê Anh Xuân, Lâm Thị Mỹ Dạ,.. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc. “Đất nước” thuộc phần đầu chương V, trường ca "Mặt đường khát vọng". Trường ca được viết tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Nguyễn Khoa Điềm viết trường ca để kêu gọi sự thức tỉnh của thanh niên, tuổi trẻ các vùng địch tạm chiếm ở miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, xuống đường, hòa nhịp vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
Nếu ở phần đầu tác giả nói về lịch sử đất nước cùng lối định nghĩa đất nước bằng thơ theo cách riêng của mình thì bốn mươi bảy dòng thơ tiếp theo, nhà thơ đi sâu vào tư tưởng đất nước của nhân dân trên tất cả các bình diện: không gian địa lý, thời gian lịch sử và văn hóa phong tục của nhân dân.
Tư tưởng đất nước của nhân dân được hiện lên qua phương diện địa lý trong cách nhìn độc đáo của tác giả. Một loạt những danh lam thắng cảnh trên đất nước ta hiện ra trước mắt người đọc: Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như hòn Vọng Phu, núi Bút, non Nghiên; những di tích lịch sử như làng Gióng, đất Tổ.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu”
Câu thơ gợi ta liên tưởng đến hòn Vọng Phu và câu chuyện cảm động về lòng chung thủy, tình yêu của người vợ với chồng. Những vần thơ như gợi nên một nỗi buồn man mác nơi đáy lòng, liệu rằng hôm nay những người đàn bà của đất nước Việt Nam có giống như Hòn Vọng Phu chờ chồng mòn mỏi hay không…? Qua hình ảnh đó, ta thấy được một tâm hồn và sức sống mãnh liệt của nhân dân ta. Trên mảnh đất Việt Nam có biết bao tảng đá lớn giống như những người đàn bà bồng con chờ chồng. Đó vốn chỉ là một hòn đá vô tri nhưng lại mang vẻ đẹp của đời sống nhân dân ta từ ngàn đời. Bởi nó mang trong mình một linh hồn dân tộc cao quý, tiêu biểu cho đời sống tinh thần của những người đàn bà thương con, yêu chồng, nguyện hóa đá đợi chồng, tượng trưng cho sự thủy chung, tình nghĩa của nhân dân ta. Không chỉ kết tinh nên một hòn Vọng Phu mà đó còn là sự hóa thân thành huyền thoại của hòn Trống Mái:
“Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
Hòn Trống Mái là một cảnh đẹp ở Sầm Sơn. Đó là hai tảng đá lớn hình thù ngộ nghĩnh, xếp chồng lên một nền đá chênh vênh. Nhân dân ta đã tưởng tượng 2 hòn đá ấy là hòn Trống và hòn Mái. Từ đó, hòn Trống, Mái trở thành biểu tượng cho tình yêu đôi lứa thủy chung, mãi mãi không chia lìa.
Không chỉ là sự hòa hợp giữa thiên nhiên và tình yêu đôi lứa, Nguyễn Khoa Điềm còn phát hiện ra nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước ta trong sự hóa thân của truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”
Câu thơ được lấy cảm hứng từ truyền thuyết Thánh Gióng. Một cậu bé từ không biết nói trong suốt ba năm đã thốt ra câu nói đầu tiên là xin đi đánh giặc bảo vệ quê hương. Sau khi đánh giặc xong, Thánh Gióng cởi áo giáp sắt rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay về trời. Những ao, đầm còn lại ngày hôm nay được cho là dấu tích gót ngựa Thánh Gióng. Tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm phải mặn nồng đến nhường nào thì nhân dân ta mới có thể tưởng tượng kỳ diệu đến như vậy về những ao, đầm quen thuộc nơi quê hương.
Một sự hóa thân kỳ diệu nữa được hiện ra, đó là hình ảnh người học trò nghèo hóa thân làm nên núi Bút, non Nghiên:
“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên”
Núi Bút, non Nghiên là những ngọn núi đẹp trông như hình cái bút, nghiên mực. Nhân dân ta lấy đặc điểm hình dáng của núi đặt tên thành núi Bút, non Nghiên. Những người học trò xưa thì cái bút, cái mực là một vật dụng vô cùng quan trọng. Vì thế mà qua đó, hình ảnh núi Bút, non Nghiên trở thành biểu tượng cho truyền thống hiếu học của người Việt.
Với niềm tự hào, say sưa với vẻ đẹp đất nước, nhà thơ lại một lần nữa vận dụng sự quan sát tinh tế và khả năng liên tưởng sáng tạo tài hoa:
“Chín mươi chín con voi góp mình dựng nên đất Tổ Hùng Vương”.
Câu thơ được xây dựng dựa trên truyền thuyết về đất tổ Vua Hùng. Chín mươi chín con voi là chín mươi chín ngọn núi bao quanh núi Hi Cương, nơi có đền thờ các Vua Hùng. Thực chất, chín chín con voi là tượng trưng của lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc của nhân dân suốt bốn nghìn năm. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam hàng năm không thể quên được ngày tháng lịch sử mùng mười tháng ba:
“Hàng năm ăn đâu, làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”
Nhà thơ mở rộng hết khả năng sáng tạo và hình dung những dòng sông hiền hòa, xanh thẳm, chảy qua các làng mạc, xứ sở như Cửu Long Giang là sự hóa thân của những con rồng im lặng, thân thương: “Những con rồng nằm in góp dòng sông xanh thẳm”. Ngay cả những con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh: “Con có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Nhà thơ nhìn tất cả những thứ gần gũi, giản dị, thân thuộc nhất trong đời sống nhân dân vào hình tượng Đất Nước lớn lao.
“Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Những đóng góp thầm lặng của nhân dân đã được đặt tên cho sông núi: ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, bà Điểm,... Cảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những vần thơ đẹp, soi bóng tâm hồn nhân dân và những cuộc đời vô danh, càng thấm thía một điều bình dị rằng nhân dân đã làm nên đất nước. Mọi danh lam thắng cảnh chỉ thực sự mang ý nghĩa cao cả và lấp lánh dòng máu tự hào dân tộc khi được cảm nhận qua đời sống tâm hồn của nhân dân:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha”
Tất cả như hiện ra trước mắt Nguyễn Khoa Điềm, đó là những ruộng đồng, gò bãi đều do sự hóa thân của nhân dân mà thành. Và sự hóa thân ấy là sự hóa thân của nhân dân suốt 4000 năm lịch sử:
“Ôi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta....”
Thán từ "ôi" và dấu ba chấm cuối đoạn thơ diễn tả sự xúc động sâu sắc, chân thành và niềm tự hào về chiều dài xa xăm bất tận của đất nước của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm dựng nước của dân tộc. Câu thơ "những cuộc đời đã hóa núi sông ta" vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Chính nhân dân đã sống và cống hiến như một huyền thoại làm nên hình sông, dáng núi suốt dọc chiều dài lịch sử đất nước của chúng ta.
Ở phương diện thời gian lịch sử, nhà thơ cũng khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Đó là lời gọi, lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết của chàng trai với cô gái người mình yêu:
“Em ơi em hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta”
Đây là một cái nhìn mang tầm vóc lịch sử, nhân loại và thời đại. Đó là cái nhìn toàn diện cả chiều dài và chiều sâu. Dài về quãng thời gian oai hùng bốn nghìn năm, sâu về những chiến công và niềm tự hào của dân tộc xuyên suốt thời kỳ ấy. Ở đây, nhà thơ tập trung nói về những con người vô danh, bình dị. Họ là lớp lớp những người con gái con trai bằng tuổi chúng ta. Trong suốt bốn nghìn năm ấy họ đã xây dựng, bảo vệ giữ gìn đất nước này. Cụm từ "năm tháng nào" không xác định kết hợp với từ "lớp lớp" chỉ sự đông đảo, các danh từ chung "con gái, con trai" tạo nên những vần thơ bình dị nhưng giàu sức gợi cảm. Và họ nối tiếp nhau đứng lên xây dựng và giữ gìn quê hương bằng biết bao mồ hôi, xương máu:
"Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh".
Những người "cần cù làm lụng" ở đây chỉ nhân dân. Họ đã vất vả dãi dầu một nắng hai sương để làm nên sự sống và phồn thịnh cho đất nước. Những hạt gạo mỗi mùa thu hoạch, những bí kíp truyền từ đời này qua đời khác. Tất cả đều thể hiện một nét đẹp cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân, làm nên truyền thống, lối sống cao đẹp của dân tộc. Không chỉ xây dựng mà trong những giây phút lâm nguy, đầy thử thách ấy của lịch sử, người con trai sẵn sàng ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con. Họ đã sẵn sàng sống xa nhau, hi sinh hạnh phúc riêng tư để bảo vệ Tổ quốc. Thật thân thương, gần gũi và bình dị biết bao.
Trong những cuộc kháng chiến, có biết bao con người mang trong mình oai danh lừng lẫy với tên gọi anh hùng, được lưu danh sử sách ngàn đời. Nhưng với tư tưởng đất nước của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến những người lao động thầm lặng, vô danh:
"Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
Họ là những người con gái, con trai, chưa một lần được lưu danh sử sách "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng cuộc đời thầm lặng của mỗi người đã hóa núi sông ta. Những điều bình dị thật sự đã làm nên một lịch sử vĩ đại ấy, một núi sông non nước vang vọng khí phách của giống nòi.
Nhân dân không chỉ là người chiến đấu mà còn là người giữ gìn văn hóa dân tộc:
"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây mà hái trái" .
Trước hết, nhân dân là người tạo nên những giá trị văn minh vật chất cho đất nước ta: "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng". Nước ta nổi tiếng với nền văn hóa lúa nước từ bao đời nay. Trong hạt lúa bé nhỏ ấy, có mồ hôi công sức lao động của những người nông dân vất vả dãi dầu một nắng hai sương. Nhưng vĩ đại hơn, đó còn là sự hội tụ của phẩm chất, tinh thần lao động cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân. Không chỉ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng, nhân dân còn là người "chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi" . Thuở xa xưa nhất của lịch sử, con người đã sống trong những hang động đầy bóng tối. Nhân dân ta có tập quán dùng rơm con cúi để giữ lửa. Trong mỗi con cúi được bện từ rơm, rạ mộc mạc truyền từ nhà này sang nhà khác, từ đời trước đến đời sau. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm Là một trải nghiệm đầy sâu sắc về sức mạnh và công lao của nhân dân, không có những điều đó thì đất nước sao được tuyệt vời như bây giờ.
Nhân dân còn là người "truyền giọng điệu mình cho con tập nói". Chúng ta đều biết rằng mỗi quốc gia đều có một ngôn ngữ và một kho tàng từ vựng quý báu. Bởi đó không chỉ là kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước mà còn nơi lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Chính nhân dân đã bồi đắp và lưu truyền qua biết bao thế hệ từ khi còn là một “búp măng non”.
Nhân dân còn là người "gánh tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân". Câu thơ gợi nhắc lại những năm tháng gian lao của cộng đồng người dân Việt trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Thiên tai và chiến tranh luôn là những ám ảnh của dân tộc nhưng cũng nhờ đó mà biết bao vùng đất mới được khám phá và đặt bằng những tên gọi thân thương. Mỗi tên xã tên làng đều gắn liền với những chặng hành trình nhọc nhằn gian khổ mà không ít vinh quang của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Tất cả đều nằm trên một chữ S thân thương.
Nhân dân cũng là người đắp đập be bờ cho người sau trồng cây mà hái trái. Câu thơ này được xây dựng trên truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh. Sự dữ dội của hai chàng trai ấy đã khiến những người dân phải đắp đập be bờ ngăn sông, chắn lũ, nhờ đó mà đất nước làng quê mới được bình yên, tận hưởng hoa thơm, quả ngọt hay chính là cuộc sống yên bình, hạnh phúc của ngày hôm nay.
Nhân dân còn là người chống ngoại xâm và diệt nội thù.
"Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại"
Lịch sử của dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta phải liên tiếp chống giặc ngoại xâm và diệt nội thù. Nhưng họ đều anh dũng đoàn kết một lòng đứng lên giết giặc. Nghệ thuật điệp từ "có"..."thì" cho thấy tinh thần tự nguyện, sẵn sàng chiến đấu hi sinh để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc một cách tự nhiên.
Từ "họ" trong các câu thơ trên được lặp lại nhiều lần, đứng ở đầu mỗi dòng thơ đã tạo nên giá trị gợi hình, gợi cảm. Hình ảnh đông đảo nhân dân nối tiếp nhau lao động, xây dựng, bảo vệ đất nước hiện ra ngay trong những vần thơ ấy.
Tất cả ý thơ như dồn nén lại đến cuối cùng, Nguyễn Khoa Điềm với niềm tự hào kiêu hãnh đưa ra những lời khẳng định chắc nịch:
"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại".
"Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân" vì nhân dân là người chiến đấu, xây dựng, bảo vệ đất nước suốt bốn nghìn năm lịch sử. Đất Nước được hình thành từ những bản sắc văn hóa dân tộc chan chứa vẻ đẹp tâm hồn nhân dân. Đó là vẻ đẹp của lòng yêu nước, cần cù lao động, hiếu học, chung thủy trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, kiên cường trong chiến đấu, lạc quan, yêu đời trong mọi hoàn cảnh.
Đất Nước của Nhân dân là “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Vì ca dao, thần thoại chính là sáng tác của nhân dân. Những ca dao, thần thoại ấy được đúc kết nên từ kho tàng ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam, phản ánh đời sống, tình cảm của nhân dân qua bao biến động thăng trầm của lịch sử. Đó là những khoảnh khắc:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu…”
Ở đoạn thơ này, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm, ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã biết và bày tỏ một cách dung dị, mộc mạc và gần gũi biết bao. Không chỉ say đắm trong tình yêu từ thuở còn trong nôi, người Việt còn rất quý trọng tình nghĩa. "Công cầm vàng" là những gian nan, vất vả mà con người phải trải qua. Đó cũng là một nét đẹp trong sự nghĩa tình của dân tộc. Và lại một lần nữa, truyền thuyết Thánh Gióng lại được gợi lại để nói về tinh thần quyết liệt trong chiến đấu của người dân Việt. Như vậy, say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, quyết liệt trong trả thù chiến đấu là bản sắc tinh thần nhân
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông và câu hát:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…”
Khổ thơ khép lại trong hình ảnh đất nước ta đẹp hiền hòa, vĩnh cửu như một dòng sông vô tận chảy từ quá khứ đến hiện tại, tương lai. Trên dòng sông ấy, âm vang những sắc màu văn hóa Việt Nam, phẩm chất tâm hồn Việt Nam. Thật vô cùng tự hào và yêu quý biết bao!
Đất Nước đã được cảm nhận ở nhiều phương diện: từ văn hóa - lịch sử, địa lý - thời gian đến không gian của đất nước. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình. Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân chính là người đã làm ra đất nước.
Tham gia Cộng đồng Lazi trên các mạng xã hội | |
Fanpage: | https://www.fb.com/lazi.vn |
Group: | https://www.fb.com/groups/lazi.vn |
Kênh FB: | https://m.me/j/AbY8WMG2VhCvgIcB |
LaziGo: | https://go.lazi.vn/join/lazigo |
Discord: | https://discord.gg/4vkBe6wJuU |
Youtube: | https://www.youtube.com/@lazi-vn |
Tiktok: | https://www.tiktok.com/@lazi.vn |
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |