Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Sau khi triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước 1883 đầu hàng thực dân xâm lược Pháp, đất nước ta rơi vào thảm cảnh “Tình thế nguy nan, cơ đồ tan nát. Cũng vì triều đình nhu nhược, tham sinh nên đã đầu hàng. Để cho quân giặc tung hoành, thừa thế ra tay tàn sát”1.
Trước tình hình đó trong triều đình có sự phân hóa, một số quan lại và quân sĩ có tinh thần dân tộc đã kiên cường nổi dậy chống thực dân Pháp. Sau khi vua Tự Đức chết, Thượng thư Bộ binh Tôn Thất Thuyết trong Hội đồng phụ chính đã dựa vào một số quan lại phái chủ chiến phế truất những ông vua thân Pháp từ Dục Đức, Hiệp Hòa đến Kiến Phúc rồi đưa Hàm Nghi còn nhỏ tuổi lên ngôi. Ngày 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết đem quân đánh vào Tòa Khâm sứ và đồn binh Pháp nhưng bị thất bại phải đưa vua Hàm Nghi rút lên miền núi Quảng Trị. Ngày 13-7-1885, từ Sơn Phòng Quảng Trị, vua Hàm Nghi ra Chiếu Cần Vương hô hào nhân dân ra sức giúp vua cứu nước.
Hưởng ứng Chiếu Cần Vương, từ năm 1885 nhiều cuộc khởi nghĩa lấy danh nghĩa Cần Vương nhanh chóng nổi lên khắp cả ba miền Bắc, Trung, Nam tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng; khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật; khởi nghĩa Tây Bắc của Nguyễn Quang Bích và khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |