Nhà văn Nga Tolstoi từng viết: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu". Chính tình yêu cuộc sống, tình yêu thiên nhiên, lòng yêu thương con người là chất xúc tác thôi thúc người nghệ sĩ tìm thấy "chất vàng mười" cho văn chương của họ. Xuyên suốt chặng hành trình cùng với người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu da diết của mình cho những người lao động, cho thiên nhiên đất nước Việt Nam. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc từ năm 1958 đến năm 1960, tất cả vẻ đẹp của sông Đà đã hiện lên rõ nét trong tùy bút này.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là "Người lái đò sông Đà", bởi song song với hình tượng con sông Đà vừa dữ dội, hung bạo, vừa dịu dàng, đằm thắm là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà vừa hung hiểm vừa thơ mộng. Nhà văn miêu tả cái hùng vĩ của dòng sông là để tôn vinh vẻ đẹp con người - một khúc hùng ca của núi rừng Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này "Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một". Thế nhưng qua cuộc chiến đấu ấy, ông đò được bộc lộ tài năng và kinh nghiệm mười năm gắn bó với thác đá Sông Đà, với cái nghề lái đò này. Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên dòng sông Đà không dưới trăm lần, trong đó có tới sáu mươi lần ông cầm lái. Con số mười năm, trăm lần, hơn sáu mươi chính là minh chứng cho kinh nghiệm dày dặn của ông đò Lai Châu.
Bước vào cái tuổi bảy mươi, hình ảnh người lái đò của Nguyễn Tuân hiện lên với một vẻ ngoài đầy phong sương, cơ thể in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông "tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,..." Thân hình ông lái đò như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch, nước da ánh lên chất sừng như mun, ánh lên nắng mưa sương gió của mây trời Tây bắc. Tuổi đã cao nhưng cặp mắt của ông vẫn tinh anh, thông thạo từng đường đi nước bước trên sông Đà. Đặc biệt trên ngực ông có nhiều "củ nâu" - đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã ví von như là "những huân chương lao động siêu hạng"................
Nguyễn Minh Châu đã từng nói: "Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người". Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cũng vì thế nhà văn luôn đi tìm những gì còn ẩn nấp trong tâm hồn con người lao động bình dị. Người lái đò sông Đà là minh chứng cho nét phong cách của Nguyễn Tuân luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Trong tùy bút "Người lái đò sông Đà", hình tượng sông Đà và hình tượng người lái đò nổi bật lên và cũng là hai hình tượng chính, được nhà văn miêu tả bằng tất cả bút lực, với kiến thức sâu sát về nhiều lĩnh vực, từ tri thức về âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh, văn học. Có lẽ bao tình cảm, niềm đam mê, yêu quý của người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác đã gửi gắm vào nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến mức máu thịt, hiểu và yêu thương dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh. Ông thuộc dòng sông như thuộc một "bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng". "Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước". Một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ "bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở". Ông lái đò cũng nắm vững "binh pháp của thần sông, thần núi" như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử 'biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng", lại cũng như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go mà ông đã theo đuổi gần kết đời người. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên bạo liệt để lao động trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Tính cách của ông lái đò được thể hiện qua những cuộc giao tranh dữ dội của nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận.
Trong cuộc chiến không cân sức, ông lái đò như một người hùng cưỡi chiến mã, tay vung gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn phương độc mã phá vòng vây quân thù, chỉ khác mặt trận của ông là mênh mông sóng nước. Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường, giảo họa của con sóng, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì ngay cả mạng sống cũng bị đe dọa, nói gì đến chuyện làm một người nghệ sĩ tài hoa trên con sông Đà nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã đặt cho những khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất "nhà binh" và cũng đầy tính nghệ thuật là "trùng vi thạch trận".
Ở trùng vi thứ nhất, một chữ Dũng hiện lên khác biệt bởi sự đọ sức giữa con người và thiên nhiên không "ngang sức ngang tài", nhưng sự quyết chiến của con người đã làm cho thiên nhiên phải ngỡ ngàng, bởi ông đò thật quá "lì đòn", thật đáng khâm phục!
Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra với khí thế nghênh chiến quyết tâm thắng trận của ông lái đò. Nhưng thiên nhiên sông Đà cũng mạnh bạo không kém, những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm thanh viện", chúng tỏ ra liều mạng, luồng sóng hung tợn cứ xông vào tới tấp, "đá trái" và "thúc gối" liên tiếp vào bụng và hông thuyền, rồi chúng còn "đội cả thuyền lên" như muốn nuốt chửng chiếc thuyền bé nhỏ. Bằng sự chủ động, sông Đà đã tung ra những cú đánh tới tấp, phủ đầu, bao gồm luôn cả những đòn hiểm, và những kẻ "non tay" sẽ gục ngã ngay từ tuyến đầu này. Nhưng con người trên thuyền ấy thì lại không hề bé nhỏ, ông lái đò vẫn bình tĩnh giữ mái chèo bằng hai tay, giúp mái chèo không bị hất lên khỏi sóng giữ. Đến lúc này, sông Đà lại tung đòn hiểm nhất: "bóp chặt lấy hạ bộ" khiến ông lái đò đau điếng, nhưng sự đau đớn của thua cuộc còn đáng sợ hơn nỗi đau thể xác quen thuộc của vị thuyền trưởng này, thế nên, ông vẫn giữ kẹp lấy cuống lái bằng hai chân rất vững, dù mặt méo bệch vì đau đớn. Ở trùng vây này, thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền như thử thách tài nghệ của ông đò, và thật anh hùng, vị thuyền trưởng lão làng ấy đã vượt qua đầy dũng cảm.
Vòng vây thứ hai có phần hung hiểm hơn trước khi "tăng thêm nhiều cửa tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn." Thế nhưng cái bẫy đó cũng chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc "quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này". Ông ví lái đò qua khúc này như "cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng", phải nắm đúng cái "bờm sóng", rồi cứ thế "phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy". Ngặt thay lại có một bọn đá định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, thì ông đò "vẫn nhớ mặt bọn này", ông tự tin "tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến". Vậy là đã qua cửa ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác.
Còn một cửa ải cuối cùng, trận này "ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ." Mới nghe đã thấy khó khăn đủ về, nhưng ông lái đò rất mạnh dạn "phóng thẳng thuyền, chọc thủng giữa cửa đó", "thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước". Vậy là đã vượt qua cả ba trùng vi thạch trận, trận nào cũng hung hiểm vô cùng.
Qua cảnh vượt thác với ba trùng vi thạch trận đầy cam go, gay cấn của người lái đò sông Đà, ta cảm tưởng mình vừa trải qua một cuộc hành động gay cấn đến nghẹt thở, hồi hộp từng giây từng phút, mà ông đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao động anh hùng, hàng ngày chiến đấu giao tranh với thiên nhiên trong sự hiểm nguy trùng trùng đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và bạo liệt.
Với ông đò Lai Châu, việc bàn đến những con cá dầm xanh, cá anh vũ, việc ngồi lại với nhau đốt lửa trong hang đá nướng ống cơm lam mới là cái thú vui của đời người đáng để ta nhắc đến tiêu khiển sau những giờ lao động vất vả. Ở đây, tuyệt nhiên không có một hồi ức nào về những hiểm nguy đã qua, mà tất cả đều đờm đọng lại lãng mạn, ngọt ngào. Người lái đò sẵn lòng gác lại mọi giap tranh, hơn thua, chỉ còn lại là những câu chuyện kể đời thường, đó là khí chất, là một cốt cách đẹp. Có lẽ vì vậy, chất thơ trong tùy bút cứ bàng bạc trong từng câu mỗi chữ.
Khi gác lại chiếc chèo, khi ngừng chiến đấu với con sóng dữ, người lái đò không còn là vị tướng chỉ huy trong trận thủy chiến ấy nữa, mà ông trở thành một người anh hùng trong cuộc sống đời thường, xem mọi chuyện chiến đấu ấy nhẹ nhàng như mây trôi. Đó chính là người anh hùng trong thời đại mới, thờ kỳ lao động xây dựng đất nước phát triển. Một trong những thành công của người nghệ sĩ, của một nhà văn là có thể phác thảo những nét bút hài hòa nhất về một nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, để chính quảng văn của mình sẽ tôn lên cái tài hoa kiêu bạc của nhân vật ấy một cách hoàn hảo nhất. Và qua đó, những cốt cách, những phẩm chất của con người hiện lên thật trọn vẹn.
Là người đầu tiên kể ra chính xác năm mươi trên tổng số bảy mươi ba con thác dữ, từ ngã ba biên giới Việt - Trung về đến chợ Bờ, Nguyễn Tuân như được cùng Đà giang và người đò gắn mình với miền Tây Bắc điệp trùng kỳ vĩ. Mười lăm bài tùy bút bà một bài thơ phác thảo ra đời sau chuyến đi thực tế của nhà văn đã góp cho văn học nước nhà một tác phẩm giá trị khẳng định cuộc sống và con người Tây Bắc trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Qua đó, ông gửi gắm những ước mơ của mình về một Tây Bắc phát triển, cuộc sống của người lao động tốt hơn, người ta sẽ dựng xây Tây Bắc và sông Đà để từ một con thủy quái dữ dội trở thành một đội quân hào hùng phục vụ cho con người Tây Bắc. Và tùy bút "Người lái đò sông Đà", đặc biệt hình ảnh ông lái đò dũng cảm và tài ba đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong tâm trí người đọc. Cùng với hình tượng này, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân càng thêm ấn tượng, bởi nó đã chảy tràn thành những áng văn đẹp, góp phần phát triển nền văn chương Việt Nam với thể loại tùy bút. Và thế, Nguyễn Tuân xứng đáng là một "Đà giang độc bắc lưu" trên bình diện nghệ thuật.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ngợi ca dưới sự kết hợp của những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa , ẩn dụ gợi lên cảm giác mãnh liệt, hồi hộp cho người đọc. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, một bức tranh hoành tráng về dũng sĩ vượt thác. Tất cả được tạo nên bởi cái tài, cái tâm, cái trí tuệ uyên bác cùng vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân.
Nghệ thuật luôn đòi hỏi sự sáng tạo. sáng tạo so với chính mình và người khác. Đọc "Người lái đò sông Đà", ta thấy được những nét mới trong quan điểm sáng tác của Nguyễn Tuân. Từ nhân vật Huấn Cao cho đến người lái đò sông Đà ta không chỉ thấy những đặc điểm phong cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà còn hơn nữa thấy được sự chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước và sau Cách mạng ông đều có những thống nhất riêng, tuy nhiên trước Cách mạng ông hướng tới vẻ đẹp "Vang bóng một thời", còn sau Cách mạng, ngòi bút của ông hướng tới con người lao động. Thế nhưng nhà văn không còn đi tìm đi tìm vẻ đẹp của những con người xa vời mà đi tìm vẻ đẹp trong chính những con người lao động đời thường, ngay trong chính cuộc sống bình dị này. Đây chính là điểm chuyển biến lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân. Họ - những con người lao động bình dị đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Trước Cách mạng, ông là một người tài tử, thích chơi ngông, thích chiêm ngưỡng cái đẹp cao sang, thì sau Cách mạng, ông lại nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ lao động. Ông nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy sinh sôi động. Ông quan niệm rằng vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sĩ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống. Khi con người đạt đến trình độ điêu luyện trong công việc của mình thì khi đó vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng.