Lẽ đời khi giàu sang phú quý con người ta thường quên đi cảnh thực tại khốn khó, bần hàn. Giống như nhân vật tôi trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy khi sung sướng thì quên đi vầng trăng nghĩa tình, phải đến khi mất điện mới thấy vầng trăng có ý nghĩa như thế nào. Nhân vật Tâm trong truyện ngắn “Trở về” của Thạch Lam lại khác hoàn toàn, anh ta phủ nhận quá khứ, quên đi những người đã yêu thương, giúp đỡ mình, quay lưng với cả ruột thịt. Nhân vật đã được Thạch Lam khắc họa bằng ngòi bút chân thật nhất trên trang văn của mình.
Tâm có một quá khứ tươi đẹp, được người mẹ già và hàng xóm hết lòng yêu thương. Mẹ anh ta đã nuôi nấng, cho anh ta ăn học tử tế thành người để có một công ăn việc làm ổn định. Tâm lấy vợ giàu có, ở trên thành phố có nhà đẹp, xe sang, và từ đó anh quên hẳn mẹ, quên đi những người ở làng quê đã dành cho mình những tình cảm tốt đẹp. Anh viện đủ mọi lý do để không về quê, khi về quê thì khinh bỉ, ghẻ lạnh và coi thường chính những người thân yêu, ruột thịt, họ hàng của mình. Với một nhân vật có hoàn cảnh như thế Thạch Lam đã gửi gắm rất nhiều những thông điệp ý nghĩa và giá trị về cuộc sống.
Trước hết chúng ta phải đồng tình với nhau rằng Tâm là một chàng trai có chí tiến thủ. Bằng chứng là anh ta rất chịu khó học hành, nhà nghèo nhưng luôn có nỗ lực phấn đấu để thay đổi cuộc đời, số phận cho mình. Và những nỗ lực ấy của Tâm đã được đền đáp một cách xứng đáng. Cậu thành đạt, có cuộc sống dư dả, lại lấy được cô vợ giàu có. Hai vợ chồng sống trong nhà cao cửa rộng, cơm bưng nước rót, tận hưởng những thú vui xa xỉ của những người giàu có.
Nhưng trái ngược với chí tiến thủ không ngừng ấy Tâm lại là một con người vô ơn, bạc bẽo. Đầu tiên là với chính người mẹ già của mình, cậu đã quên hoàn toàn đi người mẹ đã nuôi nấng hy sinh vì mình, đã cho cậu có cuộc sống như ngày hôm nay. Cậu coi việc thăm mẹ là nghĩa vụ, cậu ta lấy vợ nhưng mẹ cũng không hề hay biết. Bởi vì Tâm muốn giấu nhẹm mình có một bà mẹ nghèo với thông gia nên cậu không hề nhắc đến mẹ trong lễ cưới. Đã vậy thì thôi cậu còn xem việc báo hiếu với mẹ bằng mấy đồng bạc, tuyệt nhiên không hỏi han mẹ lấy một lời, cho rằng mình đã làm tròn nghĩa vụ của một người con khi “tháng gửi về giúp bà cụ một số tiền, chàng lại càng tin như vậy lắm, khi nghĩ đến những cái khó khăn chàng phải vượt qua để có số tiền ấy. Bao nhiêu sự dối trá chàng phải cần đến để giấu không cho vợ biết! Có khi chàng nghĩ giận bà mẹ, vì bà mà chàng phải giấu diếm như thế” Thật chua xót và cay đắng biết bao nhiêu khi một đứa con lại luôn xấu hổ về mẹ của mình. Nghĩ rằng chỉ có mấy đồng tiền gửi cho mẹ thế là đã trọn bổn phận làm con, rồi lại trách, giận mẹ vì mẹ mà mình phải nói dối, giấu diếm vợ. Đến đây người đọc thầm trách Tâm đúng là một đứa con bất hiếu, không xứng đáng với những gì mà mẹ đã hy sinh cho mình.
Người mẹ già ở quê luôn mỏi mòn chờ mong tin hồi âm của Tâm. Mong ngóng đứa con làm ăn xa trở về nhà không phải vì đồng quà, tấm bánh mà chỉ vì muốn nhìn thấy con luôn khoẻ mạnh, bình an. Đáng buồn thay Tâm lại xem đó là sự nhiêu khê, anh ta cứ khất lần khất lượt nghĩa vụ về quê, có khi năm, sáu năm chàng cũng không về. Người mẹ già liệu còn sống được bao nhiêu nữa để chờ mong tin con? Ấy thế mà Tâm vô cảm hờ hững đến độ sáu bảy năm cũng không về để thăm mẹ. Những bức thư mẹ gửi lên bằng tất cả tình yêu thương, trông chờ vào đứa con, Tâm lại xem đó là một thứ trò cười, xấu xí, Tâm khinh bỉ nó “thỉnh thoảng chàng nhận được ở nhà quê gửi ra một bức thư mà chữ viết non nớt nguệch ngoạc, và lời lẽ quê kệch. Tâm chỉ đọc thoáng qua rồi không để ý đến”.
Đến người mẹ đã dứt ruột đẻ ra mình Tâm còn chẳng may may quan tâm, đoái hoài thì những người làng xóm, họ hàng đối với anh ta có là gì. Bằng tâm thế của một kẻ giàu có luôn coi mình hơn người Tâm luôn nhìn những người đồng hương của mình bằng một thái độ khinh rẻ, coi thường. Ra khỏi ngôi nhà tuổi thơ, Tâm cảm thấy nhẹ nhõm hẳn người khi đã trút được cái sự nhếch nhác, nghèo khổ của chốn nhà quê. Cậu ta chẳng mảy may xúc động với nơi đã chăm bẵm mình những ngày khốn khó, “không còn một cái liên lạc gì ràng buộc Tâm với thôn quê nữa. Những người họ hàng ở làng chỉ làm chàng sinh ghét, vì những sự đi lại nhờ vả lôi thôi”.
Đã có nhiều lúc Tâm tự chế giễu mình vì một tuổi thơ nghèo khó, nhếch nhác, rằng mình đã được sinh ra ở một nơi tầm thường như thế. Quá khứ từng yêu một cô gái nghèo với ước mơ về một túp lều tranh hai trái tim vàng. Nghĩ đến đó Tâm lại thấy nực cười với chính hành động của mình, tự chế giễu, chà đạp đi chính quá khứ của mình. Con người như thế thì liệu có đáng tin tưởng trong xã hội này chăng?
Sự xấu xa, ích kỷ của nhân vật được đẩy lên đến cao trào khi ở cuối tác phẩm tác giả đặt Tâm vào tình huống: nhìn thấy người mẹ già và cô Trinh đưa nhau ra ga xe lửa để nhìn chàng trước khi rời về thành phố. Hình ảnh người mẹ già dựa vào người Trinh khiến cố ngắm nhìn con trai mình khiến độc giả không khỏi nhói lòng. Nhưng hắn vẫn chẳng mảy may quan tâm và xúc động trước cảnh ấy. Tâm vẫn lạnh lùng như băng và còn khó chịu với điều ấy. Lúc này anh ta chỉ lo sợ rằng bà cụ sẽ khóc lóc kể lể, ái ngại những câu bình phẩm to nhỏ, cái mỉm cười chế giễu của mọi người mà không quan tâm đến cảm xúc người mẹ nghèo.
Có thể nói tác phẩm đã xây dựng thành công nhân vật Tâm thông qua việc miêu tả hành động, ngôn ngữ đặc biệt là suy nghĩ nội tâm. Tâm là điển hình cho một bộ phận không nhỏ người trong xã hội hiện đại. Thông qua nhân vật này nhà văn phê phán thâm trầm, sâu sắc những con người chạy theo danh lợi mà chà đạp quá khứ, phủ nhận những giá trị đích thực của cuộc đời.
Bằng lối viết truyện nhẹ nhàng Thạch Lam đã tái hiện thành công nhân vật Tâm. Nhân vật với nội tâm xấu xí đáng lên án. Cho đến nay đã nhiều năm kể từ khi tác phẩm ra đời nhưng giá trị và ý nghĩa của Trở về vẫn còn rất nóng hổi.