Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết đoạn văn tổng phân hợp phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương

viết đoạn văn tổng phân hợp phân tích bài thơ vịnh khoa thi hương
3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
668
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Bài thơ "Vịnh Khoa Thi Hương" của nhà thơ Hàn Mặc Tử là một trong những tác phẩm nổi tiếng của văn học Việt Nam. Bài thơ mang đậm tinh thần lãng mạn, tình cảm và sâu lắng về tình yêu và tuổi trẻ.

Trong bài thơ, nhà thơ đã mô tả hình ảnh một cô gái trẻ đẹp như hoa, trong sáng như nước, thuần khiết như gió. Cô gái được mô tả như một hình ảnh tinh khôi, thuần khiết và đẹp đẽ, là nguồn cảm hứng vô tận cho những người yêu thơ.

Nhà thơ đã sử dụng những từ ngữ tinh tế, hình ảnh sắc nét để tạo nên một bức tranh tuyệt vời về vẻ đẹp của cô gái. Bài thơ không chỉ đơn thuần là sự miêu tả vẻ đẹp vật chất mà còn là sự tôn vinh vẻ đẹp tinh thần, tình yêu và sự trong sáng của con người.

Từng câu thơ trong bài thơ đều chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc về tình yêu, tuổi trẻ và sự đẹp đẽ của cuộc sống. Bài thơ "Vịnh Khoa Thi Hương" đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc, làm cho họ cảm nhận được vẻ đẹp tinh khôi và sự trong sáng của tình yêu và tuổi trẻ.
2
1
Tâm Như
20/02 19:53:50
+5đ tặng

Trần Tế Xương là một tài năng thơ ca nổi bật trong thơ ca trung đại Việt Nam, thơ của ông thường dùng để giãi bày tình cảnh, tâm sự của chính bản thân mình, lồng ghép vào đó sự bất công xáo trộn của xã hội, khi đọc bài thơ Thương vợ của tác giả chúng ta nhận ra sự đắng cay, nỗi xót xa mà tác cỉa phải gánh chịu trong một xã hội đầy bất công. Hiện lên trong bài thơ là một ông Tú bất lực luôn phải tự dằn vặt mình tự thương chính mình khi bản thân bất tài không giúp đỡ được nhiều cho vợ con.

 

Một sáng tác khác của Trần Tế Xương đã để lại cho người đọc nhiều thông điệp vô cùng sâu sắc về xã hội chuyển động trong thời đại “Mưa Âu gió Mĩ”, đó là bài thơ Vịnh khoa thi Hương, bài thơ đã gửi đến người đọc tiếng cười chua chát của chính tác giả khi sống trong thời đại loạn lạc, hỗn độn tất cả mọi thứ đều vần xoay, đảo ngược.

 

Nhà nước ba năm mở một khoa

Trường Nam thi lẫn với trường Hà

 

Câu thơ mở đầu như là lời thông báo của tác giả về thời gian địa điểm dự thi: thời gian ba năm đây là khoảng thời gian khá dài để cho các sĩ tử ôn luyện về kiến thức để chuẩn bị sẵn sàng cho kì thi sắp tới, sự thay đổi trong bài thơ không chỉ về thời gian mà còn về thành phần thi đó là trường Nam thi với trường Hà – trường Nam và trường Hà là hai trường thi Hương ở Bắc Kì thời xưa. Thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi Hà Nội bị bãi bỏ. Từ năm Bính Tuất (1886), các sĩ tử trường Hà xuống thi chung ở trường Nam Định.

 

Trần Tế Xương cũng tham dự kì thi. Đây là một trong những nét mới trong quá trình tổ chức thi, bởi theo lệ thường hàng năm các trường sẽ thi tách biệt với nhau nhưng những năm sau này lại gộp lại thi chung. Hai câu thơ mở đầu mang tính chất thông báo nhưng thực sự có những dấu hiệu khiến cho người đọc phải bận tâm, lưu ý mường tượng đến cảnh thi cử cực nhọc, lộn xộn, phức tạp. Những câu thơ tiếp theo dần hé lộ khung cảnh trường thi đầy nhốn nháo:

 

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ

Ậm ọe quan trường miệng thét loa

Lọng cắm rợp trời quan sứ đến

Váy lê quét đất mụ đầm ra.

 

Khi tổ chức một kì thi người tham dự thi và người đi thi phải thật nghiêm túc chấp hành quy chế thi và những quy định trong phòng thi, nhưng khung cảnh đi thi được Tế Xương miêu tả hoàn toàn khác biệt với lối thi cử quy cử ngày xưa. Tác giả sử dụng từ lôi thôi để chỉ sự nhếch nhác, sự luộm thuộm, sự thiếu nghiêm túc của những sĩ tử đi thi, đối với họ đi thi là một việc gì đó vô cùng dễ dàng và không tốn quá nhiều sức lực, nó hoàn toàn khác biệt với những sĩ tử ngày xưa họ xem chuyện thi cử là một chuyện trọng đại là đại sự trong cuộc đời, nhưng ở đây sống trong thời đại Mưa Âu gió Mĩ Tế Xương đã miêu tả một cách châm biếm hình ảnh những người đi thi.

 

Phép đảo, từ láy tượng hình (lôi thôi) nhấn mạnh hình ảnh nhếch nhác, bê tha, luộm thuộm, vất vả, bệ rạc của các sĩ tử. Hành trang của các sĩ tử không phải là bút nghiên, đèn sách mà là bao đồ đạc lỉnh kỉnh cho thấy phong thái không đường hoàng, đĩnh đạc, tự tin. Các sĩ tử đi thi là thế vậy thì các quan coi thi như thế nào họ ậm ọe thét loa không chút xấu hổ, họ chỉ làm cho qua chuyện, khiến cho không khí thu cử bị phá vỡ, rối tung. Một lần nữa phép đảo ngữ và nghệ thuật láy từ (ậm oẹ) lại phát huy tác dụng (nhấn mạnh hình ảnh người coi thi).

 

Tiếng thét loa của vị quan coi thi chứng tỏ trường thi rất lộn xộn nhốn nháo, ồn ào, nhưng thảm hại thay, tiếng thét ấy lại cũng không ra hồn. Từ láy tượng thanh ậm oẹ vừa chỉ tiếng nói không rõ ràng, vừa chỉ sự hách dịch, ra oai, nạt nộ của tên quan trông thi. Quang cảnh trường thi thật là nhốn nháo ô hợp. Một hiện tượng nữa xuất hiện trong trường thì đó là hình ảnh quan sứ và hình ảnh mụ đầm, những hình ảnh này đã làm mất đi sự trang trọng, uy nghiêm của kì thi để tuyển chọn nhân tài.

 

Dường như khi đề cập đến vấn đề này, Trần Tế Xương vô cùng đau xót vì chính bản thân ông cảm thấy bất lực không thể kiểm soát được tình thế này. Trường thi trở thành nơi đón rước long trọng, một nơi ô hợp. Khoa thi của triều đình phong kiến có sự xuất hiện của vợ chồng quan Toàn quyền. Chi tiết này cho thấy chế độ khoa cử đang đi vào giai đoạn suy thoái, đang bị phong hoá bởi văn hoá phương Tây. Phép đối được sử dụng rất đắt. Lọng treo chốn trường thi, để che đầu cho các bậc đức cao vọng trọng lại bị đối với gấu váy của mụ đầm (Ở bài khác, ông viết Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt, Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng). Sự uy nghiêm, trang trọng chốn trường thi bị hạ bệ hết mức.

 

Một đất nước ngàn năm văn hiến lại có thể tổ chức một kì thi thiếu sự trang trọng đến thế, để lại sự ê chề nhục nhã cho một quốc gia, rồi từ đây chúng ta sẽ phải đối mặt với những người gây dựng đất nước như thế nào. Châm biếm mà đau đớn nhưng không thể không nói, không thể không lên tiếng bởi vì cảnh tượng diễn ra trước mắt quá lộn xộn, quá bất cập khiến bất cứ ai trông vào cũng cảm thấy xót xa, đau lòng.

 

Chỉ bằng vài nét phác hoạ sắc sảo, Tú Xương đã dựng lại chính xác, sinh động khung cảnh hỗn độn, nhốn nháo của khoa thi Hương. Trường thi đầy những cảnh chướng tai gai mắt. Tất cả được miêu tả bằng giọng thơ châm biếm hài hước, sâu cay. Kinh nghiệm thi cử của bản thân đã giúp Tú Xương cảm nhận sâu sắc thực tế đó. Qua đây ta thấy được thái độ bất bình, khinh bỉ của nhà thơ trước những nhiễu nhương, đồi bại.

 

Những câu thơ tiếp theo, Trần Tế Xương như muốn kêu cứu, cầu xin ai đó giúp đỡ cho đất nước cứu vãn hình ảnh cho nước nhà, những đáp lại lời kêu gọi của tác giả, lời thơ hóa vào thinh không, không một lời đáp trả không một ca từ nào đủ sức nặng để có thể đáp lại những lời từ tận tâm can của chính ông. Đây cũng là cách tác giả bày tỏ nỗi đau của một người khi nước mất nhà tàn khi văn chương khoa cử xuống dốc trầm trọng không thể cứu vãn, hai câu thơ cũng khiến người đọc xót xa không kém:

 

Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà

 

Câu thơ đã thể hiện tâm trạng của tác giả thức tỉnh các sĩ tử và nỗi xót xa của nhà thơ trước cảnh nước mất nhà tan. Câu thơ vừa là lời tự vấn, vừa đối thoại, vừa thức tỉnh là lời tâm sự đầy đau xót và chua chát trước thực tại đất nước. Lời thơ cất lên như lời kêu gọi thức tỉnh. Đối tượng được gọi là nhân tài đất Bắc – tức là những kẻ sĩ, trí thức, người có học, biết nhận thức. Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà – cảnh bát nháo, ô hợp chốn trường thi, cảnh đất nước rơi vào tay thực dân Pháp; sự nhục nhã của thân phận mất nước.

 

Có lẽ không phải kẻ sĩ, trí thức nào cũng nhận thức được thực tại trớ trêu đó nên Tú Xương mới phải cất lời kêu gọi. Bằng cách lựa chọn từ ngữ, hình ảnh, âm thanh đảo trật tự cú pháp kết hợp với việc để cho nhân vật trữ tình tự nhận thức, tự bộc lộ chính những suy nghĩ tâm trạng của mình, tác giả cho người đọc thấy được thái độ trọng danh dự và tâm sự lo nước thương đời của tác giả trước tình trạng thi cử trong buổi đầu chế độ thuộc địa nửa phong kiến.

 

Vịnh khoa thi Hương là một trong những tác phẩm độc đáo, nổi bật của Trần Tế Xương bởi đằng sau giọng thơ sắc, lạnh, tỏ vẻ hờ hững đến khinh mạn con người và cuộc đời là tấm lòng lo cho dân cho nước, không cống hiến bằng sức lực, Trần Tế Xương cống hiến bằng bút lực và trí tuệ của mình để vạch nên khung cảnh u ám, sầu thảm của đất nước vào những năm tháng bị thực dân chiếm đóng cùng với đó là sự nhu nhược của triều đình phong kiến.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
4
qynhh_
20/02 19:54:35
+4đ tặng
Bài thơ "Vịnh Khoa Thi Hương" của nhà thơ Nguyễn Du là một tác phẩm văn học lớn của Việt Nam, nổi tiếng với sự sâu sắc, tinh tế trong tư duy và sự đẹp của ngôn từ. Tác phẩm này không chỉ là một tác phẩm văn học nghệ thuật mà còn là một tác phẩm triết học, tâm lý sâu sắc về tình yêu, lòng nhân ái và những triết lý về cuộc sống.

Trong "Vịnh Khoa Thi Hương", Nguyễn Du mô tả một cảnh thiên nhiên tươi đẹp, thanh bình của quê hương Việt Nam. Những hình ảnh như dòng sông êm đềm, đồng ruộng xanh mướt, hoa cỏ thơm ngát, tất cả đã được tác giả khắc họa một cách sống động, gần gũi với người đọc.

Tuy nhiên, qua những dòng thơ tinh tế, Nguyễn Du cũng truyền tải một thông điệp sâu sắc về tình yêu quê hương. Qua việc mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống dân dã, tác giả thể hiện tình cảm bi thương, nhớ nhung của người lữ khách đối với quê hương đã xa cách.

Ngoài ra, "Vịnh Khoa Thi Hương" còn là một bức tranh về lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Tác giả đã thể hiện tình yêu thương và trách nhiệm của một người con đất Việt với quê hương, với dân tộc. Từ đó, tác phẩm đã góp phần làm cho tâm hồn người đọc thêm yêu quê hương, yêu dân tộc và trân trọng những giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Tóm lại, qua việc phân tích "Vịnh Khoa Thi Hương", chúng ta nhận thấy tác phẩm này không chỉ là một bức tranh về vẻ đẹp của quê hương, mà còn là một thông điệp về tình yêu, lòng nhân ái và sự tự hào dân tộc.
1
2
Minh Hòa
20/02 19:54:37
+3đ tặng
Bài thơ "Vịnh Khoa Thi Hương" của Nguyễn Du được biết đến là một tác phẩm nổi bật trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII. Trong bài thơ này, Nguyễn Du tập trung vào việc mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống nông thôn thông qua việc sử dụng ngôn từ tinh tế và hình ảnh sinh động.

Một điểm đáng chú ý trong bài thơ là cách Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp tự nhiên bằng các hình ảnh mô tả sắc màu và sự sống động của các loài hoa, cây cỏ. Ví dụ, hình ảnh "sương trắng mờ phủ màu đất" hay "hoa gạo mầu trắng áo trăng" tạo ra một không gian yên bình và tươi mới của vùng quê. 

Ngoài việc mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên, bài thơ cũng chứa đựng những suy tư sâu sắc về sự thăng trầm của cuộc sống và giá trị tinh thần. Nguyễn Du gợi lên ý nghĩa về sự sống và cái chết, về sự phù du của cuộc đời con người, từ đó khơi gợi sự suy tư về triết lý cuộc sống.

Tổng thể, "Vịnh Khoa Thi Hương" không chỉ là một bức tranh miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là một tác phẩm sâu sắc về tâm trạng và triết lý cuộc sống. Sự kết hợp giữa ngôn từ tinh tế và hình ảnh sinh động đã tạo nên một tác phẩm văn học độc đáo, làm phong phú thêm di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Minh Hòa
BÀI CỦA NGUYEN QUYNH CÓ VẤN ĐỀ NHÉ ......................TÊN TÁC GIẢ ???.vịNH KHOA THI HƯƠNG LÀ MỘT DẤU ẤN CỦA TRẦN TẾ XƯƠNG .BẰNG NGÒI BÚT TINH TẾ đây là bức tranh sinh động và chân thực nhất về tình hình xã hội thi cử của Việt Nam buổi giao thời trong chế độ thực dân và phong kiến. Bức tranh miêu tả quang cảnh kì thi Hương cuối mùa, lố lăng, trơ trẽn, bộc lộ nỗi nhục mất nước và niềm đau xót của một kẻ sĩ đương thời. Quảng cáo decumar Mở đầu bài thơ, tác giả viết: Nhà nước ba năm mở một khoa, Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Hai câu thơ giới thiệu khéo léo đặc điểm của kì thi Hương này. Đặc điểm thứ nhất là cứ ba năm, "nhà nước" mở một kì thi như thế. Đó là quy định bình thường của lệ thi cử. Đặc điểm thứ hai làm cho cái bình thường đó trở nên hơi bất thường: trường Nam Định thi lẫn với trường Hà Nội. Đời nhà Nguyễn, toàn Bắc Kì có hai địa điểm thi Hương, đó là Nam Định và Hà Nội. Năm Đinh Dậu 1897, vì sợ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nên thực dân Pháp không cho tổ chức thi ở Hà Nội nữa, nên chính quyền nhà Nguyễn cho dồn tất cả vùng Nam Định. Chữ "lẫn" diễn tả khéo cái tính chất hỗn tạp, láo nháo, không còn thể thống gì. Cho nên, về mặt nghệ thuật, hai câu đề đã làm tốt nhiệm vụ giới thiệu của nó. Tính chất tạp nhạp, lôi thôi của thi cử lập tức hiện ra trước mắt người đọc khi bước sang hai câu thực: Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Những nhân vật trọng tâm của trường thi - sĩ tử và quan trường - được khắc hoạ rất sắc nét, bộc lộ tính cách kỳ thi và tính chất xã hội. Sĩ tử là người đi thi quan trường là những ông quan coi thi, chấm thi có trách nhiệm trong việc thi cử. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, tác giả đã vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch. Chữ "lôi thôi" này đặt ở đầu câu, gây ấn tượng mạnh, làm cho hình ảnh "vai đeo” chụp được tư thế và tư cách của những kẻ một thời được mang danh là kẻ sĩ, tiêu biểu cho ý thức xã hội phong kiến. "Lọ" ở đây người có người hiểu là lọ mực, có người hiểu là lọ đựng nước uống mà thí sinh phải mang theo. Dù là hiểu theo nghĩa nào, hình ảnh "vai đeo lọ" vẫn nổi lên thật mỉa mai cái vẻ xiêu vẹo, gãy đổ, lếch thếch, chẳng ra gì của những ông cử tương lai. Đối với đám sĩ tử như thế, còn bọn quan trường cũng được Tú Xương tìm cho một từ thật xứng đáng: “Ậm oẹ quan trường miệng thét loa” Bọn sĩ tử thì "lôi thôi"; lũ quan trường thì "ậm oẹ". Ậm oẹ là một từ rất sáng tạo của Tú Xương. Lũ quan trường dùng cái loa để chỉ dẫn, điều khiển, nhắc nhở gọi tên các thí sinh. Vì vùng đất đặt trường thi rất rộng, và số thí sinh hẳn là rất đông, nên quan trường phải thét vào loa thì người ta mới nghe được. Đây là một chi tiết rất chân thực, gần như Tú Xương chỉ làm nhiệm vụ của một nhà nhiếp ảnh thu hình mà thôi. Nhưng chính từ ngữ "ậm oẹ" hết sức độc đáo này đã khiến người thợ chụp hình bình thường ấy thành một nghệ sĩ rất sắc sảo, rất thú vị. Nó bộc lộ thực chất và chân tướng tay sai của đám quan trường này. Ậm oẹ là âm thanh ú ớ, nói không thành tiếng rõ, nhưng cái giọng điệu lên gân la lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi chứ không có thực quyền. Cho nên, nếu "thí sinh" mất đi cái vẻ nho nhã trí thức của thuở nào thì giám thị, giám khảo cũng không còn cái dáng nghiêm trang đáng tôn kính nữa. Tất cả hiện lên song song trong hai câu bình đối làm nổi bật cảnh tượng hết sức khôi hài của một trường thi. Và cảnh tượng ấy nói lên với ta bao nhiêu ý nghĩ về cái xã hội hỗn tạp, nhố nhăng trong buổi đầu của chế độ thực dân và phong kiến Việt Nam, mà triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là cái bóng mờ thảm hại đến buồn cười. Tư tưởng đó bộc lộ rõ hơn nữa trong hai câu luận tiếp theo: “Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê quét đất mụ đầm ra.” Tác giả lại tiếp tục "tả thực" cảnh trường thi. Theo như sách sử cho biết, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng tên toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tôn công sứ Nam Định Le Normand đến dự. Vì vậy, tả kì thi này mà thiếu cái chi tiết ấy thì là thiếu tất cả. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà một người làm thơ sành sõi như Tú Xương lại đem hình ảnh này đặt vào cặp luận của bài thơ. Nếu hai câu luận có vị trí chủ chốt trong bài thơ, thì hình ảnh của "ông Tây mụ đầm" ở đây là một phản ánh đúng bản chất xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: xã hội nô lệ, mà người nắm thực quyền là thực dân. Hình ảnh "lọng cắm rợp trời” cho thấy cảnh tiếp đón dành cho Tây thật là long trọng, thật là kính cẩn. Hình ảnh quan Tây mụ đầm ngồi trên vị trí cao ngất đó cho thấy cảnh mất nước của chúng ta. Nhưng cái thú vị nhất trong hai câu thơ này không phải chỉ có bấy nhiêu chi tiết đó. Cái thú vị nhất chính là Tú Xương đã biến nghệ thuật làm thơ Đường thành một vũ khí sắc bén để bày tỏ thái độ của mình đối với cái mà mình không ưa thích. Lợi dụng nghệ thuật đối, Tú Xương, đã đặt cái "váy" của bà đầm ngang với cái "lọng" của ông Tây. Nói cách khác, ghép hai hình ảnh đó với nhau, cho nó đối nhau, Tú Xương đã chơi một vố rất đau và rất thẳng tay đối với lũ quan Tây. Và cũng trong nghệ thuật đối, "quan sứ" đối với "mụ đầm" là một dụng ý của Tú Xương. Quan sứ là chữ trang trọng để gọi ông Tây, nhưng "mụ đầm" là chữ "chơi xỏ", là chữ để chửi. Mụ là tiếng gọi hạng đàn bà không ra gì. Gọi ông quan Tây thì trang trọng, nhưng gọi vợ ông quan là con mụ chẳng ra gì, đó là một cách chửi của Tú Xương. Người ta nói "văn học là suy tư chứ không phải là miêu tả". Chính ở trong trường hợp này, qua miêu tả, nhà thơ Tú Xương đã thể hiện một suy tư sắc sảo, một thái độ phê phán sắc bén. Cho nên, đậm đà chất hiện thực, nhưng thơ Tú Xương không phải chỉ là hiện thực đơn điệu, lạnh lùng, ở trong hiện thực mà ông phơi bày có cơn giận và niềm đau của tâm hồn, của tấm lòng con người. Cho nên, không lạ gì, đứng trước cảnh oái oăm và nhục nhã ấy, nhà thơ đã buột miệng thốt lên: Nhân tài đất Bắc nào ai đó, Xem thêm: Soạn Vịnh khoa thi Hương - Tú Xương siêu ngắn Soạn bài Vịnh khoa thi Hương - Ngắn gọn Vịnh khoa thi Hương - Trần Tế Xương Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà. Đất Bắc chỉ vùng Hà Nội, kinh đô của ngàn năm văn vật, nơi tụ hội của nhân tài đất nước. Câu thơ là một tiếng kêu than đối với chính mình hay là một lời kêu gọi đối với những ai còn nghĩ tới cái nhục mất nước, còn tự hào về truyền thống của dân tộc? Âm điệu câu thơ có cái gì xót xa, cho thấy tâm trạng xốn xang của chính nhà thơ. Nhân tài ở đây chỉ ai, nếu không phải là nhằm tới những người trí thức của thời đại đã từng đi qua cái cửa của trường thi này? Kết thúc bài thơ "Chạy Tây", Nguyễn Đình Chiểu cũng kêu gọi: Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng, Nỡ để dân đen mắc nạn này ? Đối với hai tâm trạng, ta thấy có chỗ khác nhau mặc dù mỗi người để bộc lộ nỗi đau xót của mình trước cảnh nước mất nhà tan. Ở Nguyễn Đình Chiểu, lời kêu gọi của ông nhắm tới những người "dẹp loạn". Điều đó đã bộc lộ ý thức đánh giặc, và quyết tâm "dẹp loạn" của nhà thơ ca ngợi và chủ xướng quan niệm "Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây". Ở Trần Tế Xương, lời kêu gọi của ông không thể hiện một tư tưởng quyết liệt như vậy. Nó chỉ gợi lên một nỗi nhục mất nước đang sờ sờ trước mắt mà có người còn không thấy, có kẻ còn làm ngơ, quay mặt đi như vậy, nên Tú Xương mới kêu gọi "ngoảnh cổ mà trông". Ngoảnh cổ là một từ rất bạo của Tú Xương. Chữ "ngoảnh cổ" của Tú Xương rất hình ảnh và biểu cảm, loại hình ảnh biếm họa của truyện cười. Cho nên không phải đến hai câu kết, cái cười của Tú Xương chợt tắt để nhường chỗ cho nỗi đau của ông. Mà ngay ở trong cái cười ấy, và vẫn cái cười sâu cay ấy, tiếng lòng của ông bật ra như một giọt nước mắt rơi xuống bất ngờ. Vì vậy, không có gì là khó hiểu khi có người cho rằng "thơ Tú Xương” đi bằng cả hai chân: Hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái (Nguyễn Tuân). Trên đôi chân đó, mà cái chân trữ tình là chủ yếu qua bài thơ "Vịnh khoa thi Hương", Tú Xương

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×