Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Ngữ văn - Lớp 8
08/03 11:27:46

Viết bài văn phân tích từng tác phẩm sau

viết bài văn phân tích từng tác phẩm sau
1 Cô bé bán diêm
2 truyện tuổi thơ tôi
3 chiếc lá cuối cùng
viết 3 bài khác nhau
1 trả lời
Hỏi chi tiết
115
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
1. Phân tích tác phẩm "Cô bé bán diêm":
"Cô bé bán diêm" là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Hans Christian Andersen. Tác phẩm kể về cuộc đời cô bé nghèo đói và bị bỏ rơi trong đêm giá lạnh. Cô bé đã cố gắng bán diêm để kiếm tiền mua ấm cho mình, nhưng cuối cùng cô bé đã qua đời vì lạnh lẽo. Tác phẩm mang đến cho độc giả một bài học về lòng nhân ái và sự đau xót của cuộc sống. Cô bé bán diêm đã trở thành biểu tượng của sự đau khổ và hy vọng trong lòng người đọc.

2. Phân tích tác phẩm "Truyện tuổi thơ tôi":
"Truyện tuổi thơ tôi" là một tập truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, nói về những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ của tác giả. Tác phẩm mang đến cho độc giả những cảm xúc ngọt ngào, hồn nhiên và đầy hồi hộp của tuổi thơ. Những câu chuyện trong tác phẩm giúp người đọc nhớ về những kỷ niệm đẹp của mình khi còn nhỏ, và cảm nhận được giá trị của tuổi thơ trong cuộc sống.

3. Phân tích tác phẩm "Chiếc lá cuối cùng":
"Chiếc lá cuối cùng" là một tác phẩm ngắn của nhà văn O. Henry, kể về câu chuyện của một người đàn ông nghèo đói và tình yêu của anh dành cho người phụ nữ mà anh yêu. Tác phẩm mang đến cho độc giả một bài học về tình yêu và sự hy sinh. Chiếc lá cuối cùng cũng là biểu tượng của sự hy vọng và niềm tin trong cuộc sống, dù có khó khăn đến đâu, con người vẫn cần phải giữ vững lòng tin và tình yêu.
0
0
+5đ tặng

            1 Cô bé bán diêm
Truyện cô bé bán diêm của An-đéc-xen đã gợi cho em một nỗi cảm thương đến xót xa trước cảnh ngộ nghèo khổ, khốn cùng và cái chết vô cùng thương tâm của cô bé. Cô bé đã cạn kiệt về vật chất và bị tổn thương nặng nề về tinh thần. Trong cuộc đời này còn có gì đau đớn hơn khi là một cô bé bị bỏ rơi, cô đơn, lẻ loi giữa trời. Cô bé bán diêm là truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi, gây xúc động người đọc.

Thời điểm xảy ra câu chuyện khá đặc biệt: Đêm giao thừa, mọi người sum họp dưới mái ấm gia đình để cùng nhau tiễn đưa năm cũ và đón chào năm mới trong không khí thiêng liêng, ngập tràn hạnh phúc. Riêng cô bé mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, váy áo phong phanh, bụng đói meo đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt ngày hôm nay, cô bé lang thang khắp nơi mà không bán được bao diêm nào.

Đêm Noel, quang cảnh xung quanh đẹp đẽ, ấm áp lạ thường: cửa sổ mọi nhà đều sáng rực đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Những hình ảnh ấy gợi cô bé nhớ lại năm xưa được đón giao thừa bên bà nội hiền hậu trong căn nhà xinh xắn có đầy dây thường xuân bao quanh.

Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tương phản làm nổi bật tình cảnh hết sức tội nghiệp của cô bé. Em đang rét có lẽ càng rét hơn khi thấy mọi nhà rực sáng ánh đèn. Em đang đói, có lẽ càng đói hơn khi ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức. Chẳng có điều gì tốt đẹp chờ đợi cô bé ngoài cái xó xỉnh tối tăm, rét mướt đầy tiếng mắng nhiếc, chửi rủa của người cha thô lỗ, cộc cằn.

Những lần đón giao thừa năm xưa vui vẻ cùng bà và cha mẹ giờ đây đã lùi vào dĩ vãng. Tai họa đã làm cho gia đình cô bé tan nát. Mẹ mất, bà nội cũng qua đời, em không còn được ai yêu thương, ấp ủ. Em đi lang thang trong đêm giao thừa... giữa trời đông gió rét... rét dữ dội .. Bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, gia đình nghèo, mẹ mất, người cha nghèo đói và tàn nhẫn.

Em phải bán diêm để kiếm sống, nếu không bán được bao diêm hay không ai bố thí cho một đồng xu nào, đêm về nhất định là cha em sẽ đánh em. Cho nên cô bé ngồi nép trong một góc tường giữa hai ngôi nhà... cho đỡ lạnh. Không bán được diêm, sợ cha đánh nên em chẳng dám về nhà. Vả lại ở nhà cũng đói, cũng rét như ở đây thôi: Cha con em ở trên gác sát mái nhà và mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các khe hở lớn trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà.

Giữa đêm giao thừa giá buốt, cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm. Lúc em nép vào một góc tường để tránh cơn gió bấc rét thấu xương cũng là lúc những khao khát cháy bỏng bùng lên trong trái tim nhỏ bé. Đôi bàn tay em cứng đờ vì lạnh, em ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm: Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ?

Cuối cùng em đánh liều quẹt một que. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Những hình ảnh tả cảnh đói rét lang thang của cô bé tương phản với cảnh no đủ, ấm cúng của mọi người, cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Trước cảnh ngộ nghèo khổ, cơ cực của cô bé, lòng tôi như đau thắt lại. Có lẽ nào ta lại không cảm thấy xót xa khi nghĩ về hình ảnh cô bé một mình bơ vơ, giữa một không gian mênh mông trong đêm tối, rét cắt da, cắt thịt.

Trong khi mọi người được sum vầy vui vẻ trong các căn nhà ấm áp, bên lò sưởi kia, thi em bé phải một mình đi bán những bao diêm, em chẳng được ai quan tâm để ý. Cảnh ngộ đó của cô bé càng làm đau đớn tim ta hơn, vì nó lại xảy ra trong đêm giao thừa, khi tất cả niềm vui và sự đầy đủ ùa vào những căn nhà ấm cúng.

Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (mơ lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en, người bà, hai bà cháu bay đi) lần lượt diễn ra thật hợp lí, hợp với những điều khao khát của em: được sưởi ấm, được ăn ngon, được đi chơi, được thương yêu, chấm dứt mọi lo lắng, buồn khổ.

Quẹt que diêm thứ nhất: Em tưởng chừng như đang ngồi trước lò sưởi bằng sắt... tỏa ra hơi nóng dịu dàng. Ngọn lửa chắp cánh cho trí tưởng tượng của em bay bổng: Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà! Ánh sáng kì dị làm sao! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng.

Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng. Thật là dễ chịu! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên. Chà! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!.

Thực tế và mộng tưởng xen kẽ với nhau. Trong ánh lửa bập bùng của que diêm, những hình ảnh của cuộc sống đầy đủ hiện ra rõ ràng trong đầu óc cô bé. Mải mê tưởng tượng nên que diêm cháy gần bén ngón tay mà em không thấy nóng. Em ao ước lúc này mà được ngồi trước lò sưởi để hơ đôi bàn tay đã cứng đơ vì lạnh thì sung sướng biết bao! Que diêm cháy hết, cô bé lại trơ về với hiện thực phũ phàng: Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất.

Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn. Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm. Đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng. Quẹt que thứ hai: Bàn ăn đã dọn... và có cả một con ngỗng quay. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên. Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà.

Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều ki diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét, cắm trên lưng, tiến về phía em bé. Rồi... que diêm vụt tắt; trước mặt em chỉ còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo. Đáng buồn thay!

Những ảo ảnh đó chỉ hiện lên trong chốc lát. Lửa tắt, vây quanh em vẫn là bóng tối mịt mùng, là cái lạnh thấu xương, cái đói rã rời và đáng sợ hơn cả là nỗi cô đơn không ai chia sẻ: Thực tế đã thay thế cho mộng tưởng; chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của cô bé bán diêm.

Quẹt que diêm thứ ba: Em thấy hiện ra một cây thông Nô-en... hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi... Trí tưởng tượng phong phú đã đem lại cho em những ao ước mới: em muốn đêm Giáng Sinh phải có cây thông Nô-en. Nên quyết định quẹt que diêm thứ ba: Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Nô-en.

Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng, hiện ra trước mắt em bé. Nhưng rồi diêm tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.

Xung quanh em vẫn là hai bức tường và đêm tối rồi em nghĩ tới bà em vì bà em, người hiền hậu độc nhất đối với em, đã chết từ lâu, trước đây thường nói rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”. Quẹt que diêm thứ tư: Em nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em. Em quẹt que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng bà em đang mỉm cười với em.

Bà ơi! Em bé reo lên, cho cháu đi với! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất nhự lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này. Trước kia khi bà chưa về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao! Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà, bà ơi!

Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu. Quẹt tất cả nhũng que diêm còn lại: Em thấy hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi... Chính lúc đó cô bé đầu trần, chân đi đất, run rẩy vì lạnh và đói. Sự đầm ấm của các gia đình hiện ra qua khung cửa sổ kia càng làm chúng ta xót xa cho cô bé khốn khổ tội nghiệp, không có lấy một chút hạnh phúc nào trong đêm giao thừa.

Nhất là hình ảnh cô bé chỉ biết ngồi thu chân vào hốc tường mà hồi tưởng, mà ước mơ. Một que diêm bật sáng lên là cuộc sống quá khứ lại hiện về. Đó là những ngày sống vui vẻ, tràn đầy hạnh phúc bên bà nội hiền từ, nhàn hậu như một bà tiên, trong ngôi nhà nhỏ xinh xắn có dây thường xuân bao quanh. Nhung que diêm tắt là một thực tại vô cùng nghiệt ngã, phũ phàng lại ập đến.

Em đang phải sống trong trăm đường cơ cực, khổ sở. Cả ngày phải đi bán diêm, nêu không bán được, đến tối về lại bị bố đánh đập. Và trong đêm giao thừa rét căm căm này em không dám về vì chẳng bán được một que diêm nào. Các mộng tưởng của em bé diễn ra lần lượt theo thứ tự như trên rất hợp lí.

Vì trời rất rét nên trước hết em mơ tưởng đến lò sưởi; tiếp đó vì đang đói em mơ tưởng đến bàn ăn đầy thức ăn ngon mà sau các bức tường kia, mọi nhà đang đón giao thừa; vì là đêm giao thừa nên ngay sau đó “cây thông Nô-en” hiện ra; đến đây tất nhiên gợi cho em nhớ đến đã có một thời em cũng được đón giao thừa như thế, khi bà em còn sống và hình ảnh bà em xuất hiện.

Kết thúc câu chuyện là sự đối lập giữa cảnh đời vui vẻ và cái chết bi thảm của em bé bán diêm: Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.

Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Mọi người bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm!”, nhưng chẳng ai biết những cái kì diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm. Ngay cả những ước mơ nhỏ bé của em mà cũng chỉ thấy được qua mộng ảo.

Mỗi một que diêm sáng lên sáng lên ước mơ ở đây không phải là ánh sáng của một cây đèn hay của một nguồn ánh sáng gì to lớn. Nó chỉ là một ánh lửa diêm nhỏ bé, dễ dàng tắt lụi trong đêm băng tuyết. Bởi vậy mỗi que diêm bật lên sao có thể sưởi ấm được tấm thân và tâm hồn đã đông lạnh của cô bé. Nó chẳng qua chỉ là chỗ bấu víu cực kì mong manh của cô bé mà thôi.

Em bé quẹt cả số diêm còn lại chính là để cố bám lấy những ước mơ đó. Trong khi chúng ta có đầy đủ những thứ đó thì cô bé bán diêm của An-đéc-xen lại thiếu tất cả. Ngay cả giấc mơ đẹp nhất em cũng chỉ được thấy khi đã hấp hối. Những mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm về lò sưởi, bàn ăn, cây thông là sát với thực tế, vì đó là những nhu cầu thiết thực cho cuộc sống của em.

Còn mộng tưởng được gặp lại bà, và em thấy bà em to lớn và đẹp lão, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao... thuần túy chỉ là nỗi khát khao tha thiết của em bé vốn thiếu hẳn tình thương yêu chăm sóc của người thân. Trong phần kết của truyện, cái chết của cô bé nghèo khổ, đói rét làm ta xót xa. Em bé thật đáng thương! Chỉ có mẹ và bà thương yêu em, nhưng họ đều đã qua đời.

Cha em có lẽ vì quá nghèo khổ nên cũng đối xử với em tàn nhẫn. Người qua đường nhìn thấy thi thể em vào buổi sáng đầu năm với thái độ dừng dưng, vô cảm. Trong xã hội tư bản thiếu sự đồng cảm và tình thương yêu giữa người với người, nhà văn An-đéc-xen đã viết truyện này với niềm xót thương vô hạn đối với em bé bán diêm bất hạnh nói riêng và cả tầng lớp người nghèo khổ nói chung.

Nhưng mặt khác, cái chết đó thật thanh thản qua hình ảnh đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười và em đang đi vào giấc mơ huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm. Chúng ta càng trân trọng những ước mơ đó của em bao nhiêu lại càng đau đớn bấy nhiêu trước cái chết vô cùng thương tâm của em. Truyện Cô bé bán diêm kể về kiếp đời của một em gái nhỏ bất hạnh, chết trong đói rét mà lòng vẫn ôm áp những mộng tưởng đẹp.

Truyện mang giá trị nhân văn cao quý, gợi nỗi cảm thương sâu sắc cho người đọc. Cần xây dựng cuộc sống ấm no cho tất cả mọi người, nhất là cho những em bé đáng thương trên đời. Để làm dịu bớt nỗi đau đang nhức nhối trong tim và cũng để an ủi những linh hồn tội nghiệp, nhà văn đã miêu tả em bé chết nhưng đôi má vẫn hồng và đôi môi đang mỉm cười. Tuy vậy, nội dung câu chuyện cô bé bán diêm và kết thúc thương tâm của nó vẫn khiến người đọc rơi nước mắt.

Dẫu tác giả có tả em bé chết nhưng đôi má vẫn ửng hồng, đôi môi đang mỉm cười, đồng thời hình dung ra cảnh huy hoàng hai bà cháu bay lên trời để đón lấy những niềm vui đầu năm thì nỗi đau trong ta vẫn không thuyên giảm, mà thậm chí cứ nhắm mắt lại thì hình ảnh ấy lại càng day dứt ta hơn.

Hình ảnh cô bé bán diêm mãi mãi để lại trong lòng bao người đọc trên khắp thế gian này niềm đau thương vô hạn, nhự luôn nhắc nhở chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Và đó cũng chính là tấm lòng nhân hậu tràn đầy của An-đéc-xen.
             2 truyện tuổi thơ tôi
Văn bản “Tuổi thơ tôi” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Tác giả đã khắc họa các nhân vật trong truyện hiện lên đầy chân thực, sinh động. Qua dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi”, chúng ta thấy được kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi học trò thật ngây thơ, trong sáng. Những cậu học trò thật nghịch ngợm với những trò chơi đã rất quen thuộc như bắn bi, chọi dế…

Đặc biệt là tình huống xảy ra với nhân vật Lợi. Vì ghen tị với Lợi có một chú dế lửa “bất khả chiến bại” - ai đổi gì cậu cũng không đồng ý nên tụi bạn đã bày trò trêu cậu. Nhưng sau trò nghịch ngợm đó, hậu quả dẫn đến hộp dế của Lợi bị thầy Phu tịch thu, rồi bị chiếc cặp của thầy giáo đã vô tình đè lên chiếc hộp. Các cậu bé lại cảm thấy vô cùng có lỗi khi nhìn thấy hình ảnh Lợi mắt đỏ hoe, nước mắt, nước mũi chảy thành dòng. Một đám tang được diễn ra ngay sau đó, với sự có mặt đầy đủ của các bạn, đặc biệt nhất là sự xuất hiện của thầy Phu. Có thể thấy rằng, những trò nghịch ngợm và những suy nghĩ trẻ thơ của các nhân vật trong truyện đã gợi nhắc người đọc nhớ về một tuổi thơ của bản thân. Chắc hẳn, ai cũng đã có một thời hồn nhiên và ngây thơ giống như cậu bé Lợi, Bảo hay nhân vật tôi. Đồng thời, nhân vật thầy Phu cùng với hành động đẹp khiến chúng ta nhận ra được bài học mà nhà văn muốn gửi gắm. Trước món đồ chơi của học trò thầy Phu vẫn tỏ ra trân trọng, và có lỗi. Lời xin lỗi của thầy Phu cho thấy tấm lòng đẹp đẽ. Nhân vật người thầy chính là tấm gương sáng ngời về nhân cách cao đẹp để học trò noi theo và học tập.

Với giọng điệu dí dỏm và cách xây dựng nhân vật độc đáo, tác phẩm đã giúp người đọc dễ dàng thấy được vẻ đẹp ẩn sâu trong mỗi nhân vật và từ đó tự rút ra những bài học quý giá cho chính mình.
           3 chiếc lá cuối cùng   

Thế giới này được tạo ra bởi những lan tỏa và sẻ chia. Có những điều khi cho đi ta còn nhận được nhiều hơn là mất. Có những tình cảm được chia nhỏ, lan tỏa và hàn gắn lại thế giới. Đó là tình yêu thương. Tình cảm ấy nằm trong những cái ôm, những lời nói, những cử chỉ, và đôi khi là trong cả ... chiếc lá. Tình đời trong chiếc lá được O.Henry thể hiện độc đáo trong đoạn trích: “Chiếc lá cuối cùng”.

 O.Henry được biết đến là nhà văn truyện ngắn nổi tiếng của Mĩ. Truyện của ông hấp dẫn với tình tiết ngẫu nhiên, có lúc khắc nghiệt hoặc oái oăm, hoặc mỉa mai, nhiều lúc khôi hài hoặc dở khóc dở cười. Để rồi kết thúc trong bất ngờ, làm người đọc thích thú nhưng không quá sướng thỏa, hoặc bâng khuâng nhưng không quá nặng nề. Với ông, “Từ mọi nơi. Mọi thứ đều mang câu chuyện”. Những câu chuyện được lấy trong cuộc sống hằng ngày, những tình huống được lấy ngay từ cuộc đời nóng hổi để đem đến những bài học chẳng bao giờ là xa vời hay khó hiểu. Điều đó cũng được thể hiện trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng”. Câu chuyện diễn ra ở một một khu nhỏ phía tây công viên Washington nơi các nghệ sĩ nghèo thường đến thuê phòng với giá rẻ. Phòng của hai nữ họa sĩ trẻ Jonhsy và Siu ở trên tầng thượng, phía cuối là nơi ở của cụ Behrman gần 60 tuổi, nghiện rượu nặng. Đã hơn 40 năm nay, ngòi bút của cụ chưa với tới gấu áo của vị nữ thần nghệ thuật. Cụ luôn có ý định vẽ một bức tranh kiệt tác để đời nhưng chưa bao giờ thực hiện được. Mùa đông năm ấy, bị chứng viêm phổi hoành hành, Jonhsy mười phần chỉ hi vọng được một. Cô chấp nhận buông xuôi, ngồi đếm những chiếc lá thường xuân trên tầng đối diện và tin rằng chiếc lá cuối cùng rụng cũng là lúc cô ra đi. Siu thương em, tận tình chăm sóc và chia sẻ chuyện đó với cụ Behrman. Qua đêm mưa tuyết lạnh lẽo, chiếc lá thường xuân vẫn trụ lại đã đem lại sức sống cho Johnsy chữa khỏi bệnh nhưng cụ Behrman đã chết vì bệnh viêm phổi. Và chiếc lá cuối cùng kia chính là tác phẩm của cụ trong đêm đông ấy.

Câu chuyện giản dị mà bất ngờ. Ở đó, có tình chị em gắn bó, hết lòng, có ý chí nghị lực vươn lên của một cô gái. Và hơn hết, ở đó là tình người, tình người gói trong chiếc lá thường xuân bé nhỏ kia. Hình tượng chiếc lá cuối cùng là một biểu tượng nghệ thuật bất ngờ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Chiếc lá thường xuân bé nhỏ, tầm thường do người bàn tay của người nghệ sĩ “thường thường bậc trung” vẽ giống y như thật, khiến cho con mắt chuyên môn tinh tế của Johnsy cũng không nhận ra được. Nó được vẽ ra trong một đêm mưa rét khủng khiếp với dụng cụ chỉ là một chiếc đèn bão, một bọ quần áo ướt sũng và vài bảng màu.

Nhưng nó đã cứu sống một con người. Chiếc lá xuất hiện kịp thời đem lại niềm tin và sức sống cho Johnsy, khơi bùng lên ngọn lửa tình đời sắp lụi tàn nơi trái tim người đồng nghiệp trẻ, khiến cô chiến thắng gã viêm phổi dai dẳng, hiểm ác. Nghị lực và mầm sống lại hồi sinh để hi vọng một ngày nào đó được làm nên những tác phẩm nghệ thuật.

Chiếc lá không chỉ được vẽ bằng tài năng nghệ thuật mà còn bằng cả tình yêu thương con người của một người họa sĩ chân chính. Chiếc lá cuối cùng đã rụng, còn lại mãi trên tường không phải là một thần dược mà là một tác phẩm nghệ thuật. Dù phải đánh đổi cả mạng sống của mình, người nghệ sĩ ấy vẫn không suy nghĩ, sẵn sàng hi sinh để đem lại sự sống cho một con người. Bức tranh của họa sĩ Behrman là một kiệt tác nghệ thuật chân chính, vì nó hướng tới con người. Tình yêu thương là nguồn sức mạnh để người họa sĩ hướng ngòi bút của mình để hoàn thành tác phẩm mang thiên chức “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Người nghệ sĩ ấy đã đem cả sinh mệnh của mình để trả lại màu xanh cho chiếc lá đã úa vàng, để đổi lấy màu hồng trên đôi má của người thiếu nữ đã xanh xao, trả lại niềm tin, nghị lực cho con người yếu đuối. Chiếc lá chính là sự hi vọng, sự hồi sinh được xây dựng bằng tình người.

Như vậy, với nghệ thuật xây dựng tình huống độc đáo, giàu kịch tính, bất ngờ qua hai lần đảo lộn: Johnsy ốm yếu tưởng sẽ chết lại được hồi sinh, cụ Behrman khỏe mạnh bỗng dưng lại chết vì bệnh. Những câu văn giản dị mà thấm thía, nghệ thuật trần thuật không theo trình tự thời gian, tăng thêm sự kịch tính cho tác phẩm. Đặc biệt, việc xây dựng hình tượng chiếc lá mang ý nghĩa biểu tượng cao. Như một “chi tiết biết nói”, nó đã khẳng định ý nghĩa nhân văn tác phẩm cũng như tấm lòng và quan điểm của nhà văn. Với ông, tình yêu thương là cội nguồn của mọi sức mạnh và vẻ đẹp trong cuộc đời. Nó đem lại sự sống, niềm tin và biến cuộc đời này trở nên đẹp hơn. Với ông, “trên đời, chỉ có một điều ấy thôi. Đó là yêu thương nhau”, như lời của Victor Hugo đã phát biểu qua hình tượng Jean Valjean trong “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”.

Một chiếc lá cứu sống một con người, một tác phẩm đưa con người ta đến gần hơn với cái đẹp, cái thiện trong cuộc sống. “Nghệ thuật vị nhân sinh”, là hướng ta tới chân, thiện, mĩ là vì thế!

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng ký tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng bạn bè học sinh cả nước, đến LAZI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo