Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Thế kỷ XI, nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lý Nhân Tông các tù trưởng và đồng bào các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc đã đứng lên phối hợp chống giặc

Thế kỷ XI, nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lý Nhân Tông các tù trưởng và đồng bào các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc đã đứng lên phối hợp chống giặc, tiêu biểu là tù trưởng họ Nùng ở châu Quảng Nguyên, họ Thân ở Lạng Châu. Lý Thường Kiệt đã tổ chức tiến đánh vào Căn cứ thành Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu của nhà Tống, sau đó cho quân rút về nước và tích cực chuẩn bị cuộc kháng chiến chống Tống. Ông cho quân đóng từ trại Vĩnh Bình đến sông Phú Lương, sai đắp đê nam ngạn cao như tường thành, bố trí thuỷ quân, sẵn sàng tiếp chiến nếu giặc Tống qua sông.

Trên địa bàn Thái Nguyên, nhiều trận phục kích quân Tống của quân triều đình và dân binh diễn ra quyết liệt trên đất Vạn Nhai (Võ Nhai), bên bờ tả ngạn sông Cầu (Đồng Hỷ, Phú Bình) đã góp phần làm chậm bước của quân địch khi chúng tiến xuống phòng tuyến sông Như Nguyệt. Chiến trận diễn ra ác liệt trong nhiều ngày, cuối cùng giặc Tống không thể phá vỡ phòng tuyến để tiến về Thăng Long. Lý Thường Kiệt đã chủ động giảng hoà, cho chúng rút về nước.

Trong ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên (1258, 1285, 1287 – 1288), hưởng ứng lời kêu gọi của nhà Trần, nhân dân Thái Nguyên đã đứng lên, tập hợp và tổ chức dân binh phục kích, tiêu hao nhiều sinh lực địch.

Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất, đóng góp của nhân dân Thái Nguyên được ghi nhận bằng chiến thắng trận Bình Lệ Nguyên (vốn là khu vực thuộc huyện Bình Nguyên, phủ Phú Bình). Nằm trên trục đường tiến quân theo hướng trên bộ, nhà Trần từ sớm đã chú ý tổ chức phòng ngự tại ở Thái Nguyên. Bên cạnh các đội quân của triều đình, có sự tham gia rất tích cực của nhân dân địa phương, cung cấp lương thực, hỗ trợ chặt gỗ làm thuyền, che chở quân lính.

Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, Thái Nguyên nằm trong đường tiến công chính theo hướng thứ hai của giặc, cánh quân này tiến theo đường bộ qua phủ Bắc Bình (tức Cao Bằng), Lạng Sơn đánh sang nước ta. Tướng Trần Quốc Tuấn trực tiếp chỉ huy chặn đánh giặc trên hướng này. Do thế giặc đông và mạnh, nhà Trần đã cho rút quân theo đường thủy, từ sông Lục Đầu vào sông Đuống, quân giặc đã "buộc bè làm cầu sang bờ bắc sông Phú Lương". Chiếm được thành Thăng Long, nhưng quân Nguyên không tiêu diệt được bộ chỉ huy, lại gặp nhiều khó khăn về lương thực, khí hậu. Ngược lại, quân đội Đại Việt vẫn bảo toàn và phát triển được lực lượng, tạo ra thời cơ thuận lợi để tổ chức cuộc phản công chiến lược. Chiến thắng Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương đã buộc quân Nguyên phải rút khỏi kinh thành Thăng Long, theo hướng Lạng Sơn rút quân về nước. Trên đường rút chạy, quân Nguyên tiếp tục bị quân và dân các dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía bắc chặn đánh, đến mức Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn thoát. Cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ hai của đế chế Mông – Nguyên hoàn toàn thất bại.


Dưới ách đô hộ của nhà Minh (thế kỉ XV), nhân dân ta không ngừng đứng lên đấu tranh. Trên địa bàn Thái Nguyên, phong trào khởi nghĩa phát triển rộng khắp. Ở các châu, huyện của Thái Nguyên các nhóm nghĩa quân hoạt động mạnh mẽ dưới sự chỉ huy của Chu Sư Nhan, Bùi Quý Thăng, Nguyễn Khắc Chẩn, Nguyễn Trà, Dương Thế Chân và Ông Lão.

Năm 1410, nghĩa quân của Ông Lão đã xây dựng căn cứ ở Đồng Hỷ, chống sự đàn áp của quân Minh và mở rộng địa bàn hoạt động xuống huyện Tư Nông (phía bắc huyện Phổ Yên, Phú Bình), sang cả Cổ Lũng (Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn), tới năm 1412 mới bị quân Minh đàn áp, thất bại.

Trong thời gian đó, ở Đại Từ, khởi nghĩa của nghĩa quân "Áo đỏ" bùng nổ bắt đầu từ cuối năm 1410, sau lan khắp cả vùng Việt Bắc, Tây Bắc, Thanh Hoá, Nghệ An và hoạt động suốt một thời gian dài đến tận năm 1427. 

Đầu năm 1412, trên địa bàn Thái Nguyên nổ ra cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhuế – Phụ đạo ở Đại Từ.

Do sự chênh lệch về lực lượng, nổ ra lẻ tẻ, tự phát, chưa có lãnh đạo thông nhất, liên kết, nên các cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng bị giặc Minh đàn áp. Tuy thất bại, nhưng các cuộc khởi nghĩa trên đã gây cho giặc Minh nhiều thiệt hại, đóng góp vào phong trào đấu tranh chung, tạo tiền đề cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.

Năm 1416, tại vùng rừng núi Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hoá), Lê Lợi cùng 18 người thân tín nhất mở Hội thề Lũng Nhai, tuyên thệ một lòng sống chết đứng lên khởi nghĩa đánh giặc cứu nước, trong đó có Lưu Nhân Chú, quê ở xã Thuận Thượng (nay là 2 xã Ki Phú và Văn Yên thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên). Sau hội thề, công việc chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành khẩn trương. Lưu Nhân Chú được Lê Lợi cử về quê nhà ở Thuận Thượng cùng cha và em rể chiêu tập trai tráng trong vùng, xây dựng căn cứ, tích trữ lương thực và tích cực tập luyện võ nghệ để chờ thời cơ nổi dậy hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Sau 10 năm chiến đấu bền bỉ, ngoan cường, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hoàn toàn thắng lợi, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đập tan hoàn toàn ách thống trị của nhà Minh. Nền độc lập của nước ta được khôi phục, đất nước bước vào thời kì phát triển mới. Trong thắng lợi chung đó, nhân dân Thái Nguyên mà đại diện tiêu biểu là Lưu Nhân Chú, Lưu Trung và Phạm Cuống đã có những đóng góp to lớn. Công lao của Lưu Nhân Chú được ghi chép trong Lam Sơn thực lục và Gia phả họ Lưu nay còn được lưu giữa tại xã Văn Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Tư liệu 8: Theo bản gia phả trên, năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), Lưu Nhân Chú được vua nhà Lê phong chức Bình chương quân quốc trọng sự (Tể tướng), và suy tôn là khai quốc công thần.
 


----- Nội dung dịch tự động từ ảnh -----
Câu 1. Dựa vào thông tin mục 3, em hãy nêu
những đóng góp tiêu biểu của nhân dân Thái
Nguyên trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất
nước từ đầu thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVI.
Câu 2. Liên hệ và cho biết địa phương em
(huyện, xã) thuộc địa bàn của cuộc khởi nghĩa
nào? Hiện nay có di tích lịch sử nào gắn với
cuộc khởi nghĩa đó?
Câu 3. Em hãy lập bảng thống kê về một số
cuộc khởi nghĩa tiêu biểu diễn ra trên vùng đất
Thái Nguyên từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVI.
Câu 4. Ở địa phương nơi em sinh sống có
những di tích lịch sử, danh nhân nào tiêu biểu
thuộc thời kì phong kiến?
Câu 5. Trong những đóng góp của nhân dân
Thái Nguyên từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVI, em
ấn tượng với đóng góp nào nhất? Vì sao?
Câu 6. Viết một bài giới thiệu (không quá 500
từ) về một di tích của tỉnh Thái Nguyên gắn với
một cuộc kháng chiến hay nhân vật lịch sử
trong giai đoạn từ đầu thế kỉ X đến thế kỉ XVI.
2 trả lời
Hỏi chi tiết
73
0
0
+5đ tặng
Việc xâm lược Đại Việt biến Giao Chỉ trở thành quận huyện của Trung Quốc là âm mưu và tham vọng thường xuyên của đế chế Tống. Từ những năm 70 của thế kỷ XI nhà Tống ngày càng ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta. Trong kế hoạch tấn công Đại Việt, Tống thần Tông đã vận dụng thủ đoạn chiến lược cổ truyền, đó là, liên minh với nước xa đánh nước gần.

Để chiếm Đại Việt nhà Tống âm mưu sử dụng lực lượng quân sự Chiêm Thành quấy phá, làm suy yếu ta và tạo thành mũi tấn công phối hợp từ phía Nam. Đó là chiến lược hai gọng kìm cùng một lúc tấn công Đại Việt từ hai phía Bắc và Nam.

         Để thực hiện âm mưu đó, năm 1074, trong khi ở Trung Quốc, Tống Thần Tông xuống chiếu cử Lưu Di giữ chức trấn thủ Quế Châu, chuyên công việc điều động binh mã, tích trữ lương thảo, xây dựng căn cứ Ung – Khâm – Liêm, thì ở phía Nam, quân Chiêm Thành cũng liên tục cướp phá và xâm phạm lãnh thổ nước ta. Quân Chiêm Thành đã được lệnh áp sát biên giới chuẩn bị đánh Đại Việt.

         Về phía Đại Việt vào thời điểm này đang là thời kỳ cường thịnh, nền quốc phòng ngày càng vững mạnh. Vì vậy, nhân dân ta bước vào thời kỳ kháng chiến chống Tống lần thứ hai trong tư thế hoàn toàn chủ động. Bấy giờ vua Lý Nhân Tông còn nhỏ tuổi, Thái Uý Lý Thường Kiệt ở cương vị như một tể tướng đóng vai trò chủ yếu điều hành công việc triều chính. Ông cũng trực tiếp lãnh đạo cuộc chiến tranh, sự lớn mạnh về mọi mặt của đất nước cho phép Lý Thường Kiệt đối phó với âm mưu xâm lược của nhà Tống một cách cương quyết chủ động. Nhưng đối với một kẻ thù lớn hiếu chiến và thâm hiểm như quân Tống, Lý Thường Kiệt không bao giờ chủ quan, mất cảnh giác. Những năm 1074 và 1075, quân Chiêm lại liên tục quấy phá ta để chuẩn bị lực lượng tấn công với quân Tống, Lý Thường Kiệt quyết định tiến công trước, nhằm tiêu diệt và khống chế quân Chiêm Thành, ngăn chặn mối hiểm họa từ phương Nam đất nước, đồng thời, làm phá sản âm mưu lôi kéo sử dụng lực lượng quân sự Chiêm Thành làm mũi tiến công thứ hai của nhà Tống. Nhờ đó, nhà Lý có thể rảnh tay ở phía Nam để tập trung đối phó với việc uy hiếp của quân Tống ở phương Bắc.

         Trong năm 1075, nhà Tống khẩn trương điều quân bắt lính ở vùng Quảng Châu, Quảng Đông, Quảng Tây. Quân đồn trú được tăng cường. Chúng triển khai chiếm giữ những nơi quan yếu trên tuyến biên giới. Năm liên trại lớn: Hoành Sơn, Thái Bình, Long Châu, Cổ Vạn và Tư Minh được xây dựng, trở thành vị trí án ngữ xây dựng ở phía trước, bảo vệ cho Ung – Khâm – Liêm. Đến giữa năm 1075, về cơ bản nhà Tống đã hoàn thành việc động binh và triển khai lực lượng phía trước. Hơn 10 vạn quân cùng với nhiều lương thảo, phương tiện chiến tranh đã được tập trung ở các kho, trại và căn cứ Ung – Khâm – Liêm đã được xây dựng thành bàn đạp tấn công xâm lược. Chỉ chờ 6 vạn quân chủ lực, tinh nhuệ từ phía Bắc xuống là vua Tống có thể ra lệnh xuất chinh.

         Nhờ có tin tức tình báo, với tầm nhìn chiến lược sắc sảo của mình, Lý Thường Kiệt đã phán đoán tình hình, phân tích tương quan lực lượng giữa ta và địch. Khi mọi lực lượng kháng chiến của Đại Việt đã sẵn sàng, khi mà sự chuẩn bị của nhà Tống đang ở giai đoạn cuối, Lý Thường Kiệt đã đề ra chủ trương chiến lược “ Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của chúng và ông quyết định đánh trước địch, giáng đòn phủ đầu quân Tống, triệt phá hoàn toàn căn cứ xuất phát tấn công xâm lược của giặc, buộc chúng phải chuẩn bị lại từ đầu, đẩy lùi thời gian mở cuộc tấn công xâm lược của nhà Tống”[1]. Tư duy chiến lược sáng tạo và độc đáo trong chỉ đạo chiến tranh của Lý Thường Kiệt đã san bằng căn cứ Ung – Khâm – Liêm của địch trong vòng 3 tháng. Đồng thời Lý Thường Kiệt đã chặn được mũi nhọn của giặc, đẩy địch rơi vào thế bị động ngay từ đầu, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

         Khi mục đích của cuộc tập kích đã đạt được, Lý Thường Kiệt ra lệnh rút quân về nước chuẩn bị đánh địch trên đất mình. Đây là một quyết định bất ngờ đối với quân giặc. Ý định dùng Ung Châu để giữ chân quân Đại Việt của địch không đạt được. Một lần nữa Lý Thường Kiệt đã phán đoán đúng âm mưu của địch, đã khéo léo tính toán, xử lý nhanh, chủ động rút quân về phòng thủ đất nước.

         Biết thế nào quân Tống cũng sẽ mang quân sang để trả thù và lấy lại uy thế, sau khi rút quân về nước, Lý Thường Kiệt đã chủ trương xây dựng một trận địa phòng ngự vững chắc, để chặn đứng quân xâm lược, bảo vệ an toàn cho kinh đô Thăng Long. Ý đồ chiến lược của Ông là bằng phòng ngự chiến lược, chặn đứng, phá thế tiến công của địch, giam hãm quân Tống trong tình trạng bị tiêu hao, mệt mỏi, thiếu lương thực, không viện binh, tạo thời cơ để phản công, tiến công tiêu diệt chúng. Có thể nói, đây là một điểm độc đáo về mặt chiến lược chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta; chứng tỏ tính chủ động, sáng tạo của tư tưởng quân sự Lý Thường Kiệt.

         Mặc dù bị quân đồn trú, quân địa phương và dân binh Đại Việt chặn đánh quyết liệt, nhưng trong thế tiến công mãnh liệt, 30 vạn quân Tống đã nhanh chóng chọc thủng tuyến phòng thủ vòng ngoài và tiến sâu vào lãnh thổ nước ta. Thế nhưng quân Tống không thể vượt sông được khi chỉ còn cách kinh đô Thăng Long khoảng 20Km nữa, phải chờ đợi sự hỗ trợ của đạo thủy quân do Dương Tùng Tiên chỉ huy; trong khi đó, chính đạo quân này đã bị Lý Kế Nguyên đánh tan ở sông Đông Kênh. Càng đóng lại lâu ngày, quân giặc càng sa vào thế bị động, càng bị tiêu hao, lương thiếu, binh mệt lại phải chống đỡ khắp nơi. Bởi thế, chủ tướng Quách Quỳ phải hủy bỏ kế hoạch tiến công "đánh nhanh thắng nhanh", chỉ lo phòng giữ, ra lệnh “ ai bàn đánh sẽ bị chém”. Như vậy, bằng phòng ngự chiến lược, Lý Thường Kiệt đã làm thất bại chiến lược tiến công của quân Tống buộc chúng phải chuyển sang phòng ngự bị động.

         Khi quân Tống đang ngày càng khó khăn, khốn quẫn, Lý Thường Kiệt đã chớp lấy thời cơ, chuyển sang phản công, tiến công tiêu diệt quân địch. Đây lại là một quyết định chiến lược sáng suốt và táo bạo, thể hiện tính chủ động và tài năng chỉ đạo chiến lược của ông. Với thắng lợi to lớn của đợt tiến công, quân ta đã dồn quân Tống đến chỗ bế tắc, buộc bọn tướng lĩnh chỉ huy phải lựa chọn một trong hai giải pháp: Hoặc là ngoan cố tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh để rồi không tránh khỏi sự tiêu diệt hoàn toàn, hoặc chấp nhận rút quân về nước chấm dứt chiến tranh giữ “thể diện Thiên Triều”. Đúng lúc này, Lý Thường Kiệt đã chủ động “dùng biện sĩ để bàn hoà, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu, mà vẫn bảo tồn được tôn miếu xã tắc”. Đây là chủ trương kết hợp giữa đánh địch và thương lượng, giữa quân sự và ngoại giao, buộc vua Tống ra lệnh bãi binh và từ bỏ ý đồ xâm lược Đại Việt. Đồng thời, cũng là nghệ thuật kết thúc chiến tranh độc đáo của Lý Thường Kiệt.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
2
+4đ tặng
  1. Nhân dân Thái Nguyên đã đứng lên phối hợp chống giặc từ thế kỉ XI đến thế kỉ XVI. Họ tham gia vào các cuộc kháng chiến chống lại các triều đại xâm lược như nhà Tống, nhà Mông – Nguyên và nhà Minh. Cụ thể, trong cuộc kháng chiến chống nhà Tống vào thế kỉ XI, nhân dân Thái Nguyên đã cùng tù trưởng và đồng bào các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc đứng lên phối hợp chống giặc, góp phần làm chậm bước của quân địch và tạo điều kiện cho Lý Thường Kiệt tổ chức cuộc kháng chiến chống lại nhà Tống. Còn trong cuộc kháng chiến chống nhà Mông – Nguyên vào thế kỉ XIII và XIV, nhân dân Thái Nguyên tiếp tục tham gia vào các cuộc khởi nghĩa, phục kích, góp phần vào việc đánh bại giặc xâm lược và bảo vệ đất nước.

  2. Địa phương Thái Nguyên liên quan đến cuộc kháng chiến chống nhà Mông – Nguyên vào thế kỉ XIII và XIV. Hiện nay, có một số di tích lịch sử gắn với cuộc kháng chiến này, như di tích Vạn Nhai (Võ Nhai) ở Đồng Hỷ, Phú Bình.

  3.  
Nguyễn Kiên Quốc
cậu ơi , cậu có thể chấm điểm cho tớ đc khum ạ >w<
Tiểu Thực Tử
Được nha bạn!
Nguyễn Kiên Quốc
cảm ơn bạn nhìu nhoa

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư