Nguyễn Quang Sáng nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam với nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình. Trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Quang Sáng tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được Nguyễn Quang Sáng viết vào năm 1966 khi ông hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con của người chiến sĩ cách mạng. Với nhan đề của truyện ngắn “Chiếc lược ngà” nó nói lên mơ ước của bé Thu và nó cũng tượng trưng cho tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu với cô bé Thu từ lúc còn sống cho đến cả lúc hy sinh. Là kỷ vật cuối cùng mà ông Sáu để lại cho con, đồng thời cũng khắc sâu nỗi đau đớn mà chiến tranh đã để lại trong mỗi gia đình, sự mất mát, đau thương, sự chia cắt.
Truyện ngắn xoay quanh hai cha con ông Sáu và bé Thu. Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Bé Thu ra đời, đã bảy tám năm nhưng chưa gặp cha mình lần nào. Nó chỉ được nghe mẹ kể về bà và xem hình ba qua bức ảnh cưới đen trắng mà thôi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Ngày anh Sáu được nghỉ phép ít ngày về thăm gia đình, lần đầu tiên nhìn thấy con gái mình anh vô cùng nghẹn ngào xúc động. Anh Sáu chạy tới ôm con gọi lớn “Thu ơi! Ba đây con”. Nhưng đáp lại tình cảm sâu sắc mãnh liệt của anh Sáu là thái độ hờ hững, tìm cách thoát khỏi vòng tay của người cha. Bé Thu chạy vào nhà gọi mẹ.
Suốt ba ngày, anh Sáu chẳng đi đâu xa, muốn ở bên con vỗ về, chăm sóc, bù đắp cho con sự thiếu thốn tình cảm. Song, anh càng xích lại gần thì nó càng tìm cách xa lánh, nhất định không gọi một tiếng “ba”. Khi má dọa đánh bắt kêu “ba” vào ăn cơm, nó nói trổng: “Vô ăn cơm!”; “Cơm chín rồi!”; “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” làm anh Sáu đau lòng đến mức không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười. Đến bữa sau, mà giao cho nó nhiệm vụ ở nhà trông nồi cơm, nó không thể tự chắt nước. Tưởng chừng nó phải cầu cứu đến người lớn, phải gọi “ba”. Nhưng quyết không, nó vẫn nói trổng “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”. Bác Ba mở đường cho nó, nhưng nó không để ý, nó lại kêu “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Anh Sáu cứ vẫn ngồi im. Và nó đã tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức, mà nhất định không chịu nhượng bộ, nhất định không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong chờ. Đỉnh điểm của kịch tính bé Thu hất cái trứng cá mà anh Sáu đã gắp cho nó, làm cơm văng tung tóe. Anh Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, anh đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông nó. Bị anh Sáu đánh, Thu không khóc, gắp lại trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng. Bé Thu không chịu nhận anh Sáu làm cha bởi nó thấy anh Sáu không giống với người cha trong ảnh mà nó thường nhìn thấy. Những vết sẹo gớm ghiếc trên mặt ông làm cho bé Thu không thể nào nhận ra ông được. Những ngày tháng hai cha con sống chung cũng có nhiều tình tiết khiến nhiều người phải suy nghĩ. Trong khi anh Sáu tìm đủ mọi cách để được gần gũi con, để được chăm sóc cho con gái những ngày được ở nhà, thì bé Thu lại vô cùng ngang ngạnh gai góc cương quyết không chịu nhận Ba. Nhưng khi bé Thu biết được đó chính là cha mình, những vết sẹo trên mặt anh Sáu là vì dân vì nước, vì bảo vệ mẹ con Thu mà có thì bé Thu đã khóc. Nó âm thầm lau những giọt nước mắt trên khuôn mặt mình khi nghe bà ngoại kể về những chiến công của cha, những khó khăn vất vả mà cha nói phải đối diện ngoài chiến trường.
Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Ba ngày nghỉ phép đã hết, ngày anh Sáu phải lên đường đi chiến đấu cũng đã tới, giây phút chia ly, tiễn biệt, nghẹn ngào. Anh Sáu nói với bé Thu “Ba đi nghe con” trong giây phút ấy bé Thu đã thực sự trở thành một cô bé đúng tuổi của mình. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả anh Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba…a…a…ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Nó chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi…Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Đó là tiếng gọi của trái tim,của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó gọi lớn “Không cho ba đi, ba phải ở nhà với con” rồi ôm chầm lấy anh Sáu mà khóc. Tình cảm cha con trào dâng mãnh liệt, tiếng ba được dồn nén, kìm kẹp quá lâu nay được phát ra vô cùng nghẹn ngào. Qua những biểu hiện tâm lí và hành động của bé Thu, người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi của bé Thu. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ. Tuy nhiên, cách thể hiện tình cảm của em vẫn rất hồn nhiên, ngây thơ. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động.
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Anh Sáu tỉ mỉ, mài từng cái răng của chiếc lược. Anh làm nó bằng cả trái tim yêu thương của một người cha dành cho đứa con gái bé bỏng của mình. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Rồi trong một lần tác chiến anh Sáu đã anh dũng hy sinh, máu nhuộm đỏ chiếc lược ngà anh để trong túi áo. Anh đã hy sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn thân thiết nhất của mình là anh Quang với ý nhờ anh Quang mang chiếc lược này về quê trao tận tay con gái của mình. Anh Sáu ra đi vì tiếng gọi thân thương của quê hương đất nước, vì độc lập của dân tộc Việt Nam, để bảo vệ mảnh đất và những con người anh yêu thương. Anh Sáu mãi mãi không thể nào gặp lại bé Thu được nữa, chiếc lược ngà anh Sáu làm tặng con là món quà đầu tiên và duy nhất mà anh để lại cho đứa con gái bé bỏng của mình. Nó là một món quà vô giá, thấm đẫm tình cảm cha con, tình phụ tử thiêng liêng.
Truyện Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của cha con anh Sáu. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và ngời sáng. Câu chuyện không chỉ nói lên tình cha con thiêng liêng mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc. Đây là câu truyện có cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên, hợp lý. Giọng kể mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Đặc sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở ngòi bút miêu tả tâm lí, đặc biệt là tâm lý trẻ em rất tinh tế và chính xác. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn với con người và cuộc đời. Tuy ông Sáu không còn nữa, ông đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường rừng thiêng nước độc, nhưng, câu chuyện cảm động về chiếc lược ngà và tình cảm cha con ông sẽ là một nhân chứng cho nỗi đau mà chiến tranh đã gây ra cho người dân của chúng ta. Thông qua tác phẩm này nhà văn Nguyễn Quang Sáng muốn tố cáo tội ác của chiến tranh đã làm cho nhiều gia đình Việt Nam phải nhà tan cửa nát, cha con không được gần gũi đoàn tụ.