Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích tình cha con trong tác phẩm Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng

Đề: phân tích tình cha con trong tác phẩm Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng 
2 trả lời
Hỏi chi tiết
71
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Trong tác phẩm Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, mối quan hệ giữa cha con được thể hiện qua những tình cảm, hành động và suy tư của nhân vật chính là ông Hải và con trai là Thắng.

Ở đầu truyện, ông Hải được miêu tả là một người cha yêu thương con cái và luôn muốn mang lại điều tốt đẹp nhất cho con trai. Ông đã dành nhiều tâm huyết để làm chiếc lược ngà đẹp nhất cho Thắng, biểu hiện tình yêu thương và quan tâm sâu sắc của ông dành cho con. Tuy nhiên, Thắng không hiểu được giá trị thực sự của chiếc lược ngà mà chỉ coi nó như một vật trang sức xa xỉ.

Mối quan hệ giữa ông Hải và Thắng cũng phản ánh sự hiểu biết và giao tiếp kém giữa cha con. Thắng không hiểu được ý nghĩa sâu xa của chiếc lược ngà mà chỉ coi nó như một vật dụng xa xỉ, trong khi ông Hải lại hy vọng rằng Thắng sẽ hiểu và trân trọng giá trị của nó. Sự hiểu biết và giao tiếp kém giữa cha con đã tạo ra sự hiểu lầm và mất mát trong mối quan hệ của họ.

Tuy nhiên, qua sự hiểu biết và trải nghiệm, Thắng đã nhận ra giá trị thực sự của chiếc lược ngà và tình yêu thương của cha mình. Ông Hải cũng nhận ra rằng quan trọng nhất không phải là vật dụng mà là tình cảm và sự hiểu biết giữa cha con. Mối quan hệ giữa họ đã được củng cố và thêm sâu đậm sau những trải nghiệm và học hỏi.

Tóm lại, mối quan hệ giữa cha con trong tác phẩm Chiếc lược ngà được thể hiện qua sự hiểu biết, tình yêu thương và sự trưởng thành của con cái. Đồng thời, nó cũng nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc hiểu biết và giao tiếp trong mối quan hệ gia đình.
1
0
Hồng Anh
24/05 20:25:10
+5đ tặng

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn gốc An Giang, những tác phẩm của ông gắn liền với vùng đất và con người miền Tây Nam Bộ. “Chiếc lược ngà” là một tác phẩm hay và tiêu biểu của ông. Bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý cùng nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật, truyện đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong cảnh ngộ éo le của cuộc chiến tranh.

Trong chiến tranh, sự mất mát, thiệt thòi, hy sinh về tình cảm gia đình là điều tất nhiên. Ông Sáu xa nhà đi theo tiếng gọi của kháng chiến khi con gái đầu lòng mới tròn một tuổi. Ông trở về thăm nhà sau tám năm xa cách gia đình, nhưng trớ trêu thay, bé Thu không nhận ra ông là ba. Khi vừa gặp gỡ, Thu ngờ vực, lảng tránh, thậm chí còn bỏ chạy vì sợ hãi bởi “vết thẹo bên má phải cứ mỗi khi anh xúc động lại đỏ ửng lên, giật giật trông rất dễ sợ”.

Trong những ngày ông ở nhà, Thu kiên quyết không nhận ông là ba mặc dù ông đã tìm mọi cách để gắn kết tình cha con với cô bé. Sự cương ngạnh của cô bé không đáng trách vì em còn quá nhỏ để có thể hiểu được những khó khăn, mất mát và xa cách mà chiến tranh mang lại và em cũng chưa thể sẵn sàng để đón nhận người ba sau một khoảng thời gian dài như thế.

Em không nhận ông Sáu là cha vì sau nhiều năm, chiến tranh đã khiến ông có vết thẹo dài trên má không giống bức hình chụp chung với má mà em biết. Điều đó chứng tỏ Thu có tình cảm dành cho ba nhưng chỉ là do em chưa sẵn sàng. Em chưa biết chắc đó là ba nên không thể biểu lộ tình cảm một cách tự nhiên được.

Buổi sáng sớm cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường trở lại chiến khu, thái độ của Thu đột nhiên thay đổi. Trong đêm bỏ về nhà ngoại Thu đã được bà giải thích về vết sẹo trên má của ba. Bé hiểu ra, cảm thấy ân hận và hối tiếc vô cùng: “nghe bà kể, nó nằm im lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Lúc chia tay “vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của bé thật dễ thương”.

Khi ông Sáu ngậm ngùi nhìn con để chào từ biệt, “đôi mắt mênh mông của con bé xôn xao” tình cha con đã dồn nén bấy lâu nay chợt vùng lên mạnh mẽ, vô cùng hối hả, cuống quýt. Thu thét lên gọi ba “tiếng kêu của nó như tiếng xé”, “xé tan sự im lặng và xé cả ruột gan của mọi người, nghe thật xót xa”. Hành động của cô bé cũng thay đổi “nó nhảy thót lên, dang cả hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”…

Tất cả những biểu hiện đó của bé Thu đều bắt nguồn từ tình cảm thương yêu và nhớ mong dành cho người ba mà nó hằng tôn kính, tôn thờ và không ai có thể thay thế được. Ở Thu sự ương bướng và mạnh mẽ nhưng vẫn có nét ngây thơ, hồn nhiên của con trẻ. Bằng tâm hồn tinh tế, một trái tim nhân hậu và chứa chan tình yêu thương đối với tình cảm gia đình, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến sâu sắc nhất những biểu hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách sinh động và tinh tế.

Tình cảm của ông Sáu đối với bé Thu được biểu hiện qua chuyến về thăm nhà sau tám năm xa cách. Khi xuồng còn chưa kịp cập bến, nhìn thấy con gái ông đã vội vàng “nhảy thót lên, khom người, hai tay đưa về phía trước, miệng lắp bắp: “ba đây con! ba đây con””. Ông cứ tưởng sẽ ào tới, ôm lấy cổ ba cho thỏa những ngày tháng xa rời. Nhưng không, ông hụt hẫng khi “bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy”.

Thời gian ở nhà không nhiều nên ông Sáu chỉ ở nhà tìm cách gần gũi, gắn kết với con, chỉ mong nghe một tiếng “ba” từ con gái mà không được. Có lúc giận quá ông đã không kiềm chế mà đánh con. Lúc chia tay, tình yêu mãnh liệt của bé Thu khiến ông “một tay ôm con, tay kia lấy khăn chấm nước mắt”.

Càng cảm động và đau đớn hơn khi biết rằng lần đầu tiên này cũng chính là lần cuối cùng anh được nghe tiếng gọi ba thân thương từ bé Thu, bởi vì sau đó, anh đã không thể trở về một lần nào nữa!. Trong những ngày ở chiến khu, anh ân hận vì những lần đã trót đánh con. Khi nhặt được một khúc ngà voi anh vui mừng như trẻ nhỏ “mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

Những ngày sau đó tất cả tình cảm yêu quý, nhớ thương con anh đều dồn vô việc làm cây lược. Anh “cưa từng chiếc răng lược, thận trọng và tỉ mỉ”, anh còn khắc lên “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”… Những lúc nhớ con anh mang cây lược ra chải lên tóc mình cho cây lược thêm óng mượt.

Những lúc ấy anh tha thiết mong có một lần về phép thăm nhà để anh tự tay mình cầm cây lược chải lên mái tóc cho con… Nhưng chiến tranh tàn khốc đã cướp mất giấc mơ đó, khiến anh chẳng bao giờ có thể trở về bên con gái mình được nữa. Anh đã hy sinh trong một trận càn quét lớn của địch. Những lời trăn trối cuối cùng “dường như chỉ có tình cha con là không thể chết”, anh cầm cây lược trao cho anh Ba với niềm mong mỏi không còn có thể cất được thành lời.

Từ lúc ấy, cây lược bằng ngà đã trở thành một kỷ vật tình cha con, thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử. Những dòng cuối cùng của truyện khép lại trong nỗi buồn như cắt vào tim mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Câu chuyện cảm động của cha con ông Sáu đã phản ánh giá trị hiện thực trong chiến tranh. Chiến tranh ác liệt và phi nghĩa đã cướp mất đi hạnh phúc gia đình của bao nhiêu cuộc đời. Tác giả đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo và miêu tả tâm lý nhân vật rất thực và hợp lý, chỉ có trong chiến tranh và nhờ tình huống này mà tình phụ tử được khắc sâu tô đậm như một lẽ sống. Qua đó, Nguyễn Quang Sáng cũng bộc lộ thái độ căm ghét với chiến tranh. Và vì vậy, giá trị nhân đạo của tác phẩm càng nâng cao.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Hưng Việt
25/05 10:47:31
+4đ tặng

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết văn. Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim; đề tài chính; cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ. Chiếc lược ngà viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là truyện ngắn xuất sắc viết về tình cha con và nỗi đau chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ thông qua nhân vật ông Sáu và bé Thu.

Truyện đã thể hiện tình cha con sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong hai tình huống. Tình huống thứ nhất, hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản thể hiện sâu sắc tình cảm của bé Thu dành cho người cha thân yêu. Tình huống thứ hai, ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này bộc lộ sâu sắc tình cảm của người cha đối với con.

Tình yêu của bé Thu đối với cha được thể hiện thật đặc biệt. Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy con. Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lảng tránh và ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động. Khi mới gặp ông Sáu, cô bé hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên. Những ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu chỉ gọi trống không với ông mà không chịu gọi cha, nhất định không chịu nhờ ông chắt nước nồi cơm to đang sôi. Bữa cơm, Thu liền hất cái trứng cá mà cha nó gắp cho. Cuối cùng, khi bị ông Sáu tức giận đánh cho một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua cái dây cột xuồng kêu rổn rảng thật to.

Sự ương ngạnh ấy của cô bé hoàn toàn không đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó những khả năng bất thường, nên nó không tin ông Sáu là ba nó chỉ vì trên mặt ông có thêm vết sẹo, khác với hình ba mà nó được biết. Phản ứng tâm lí của em là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái cứng đầu của em có chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha khác – người trong tấm hình chụp với má em.

Nhưng trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi ba mà tiếng kêu như tiếng xé, rồi nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhan như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.

Sở dĩ có sự biến đổi đột ngột như vậy trong thái độ và hành động của bé Thu là vì trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu được giải toả và ở cô bé nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc: Khi nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn. Vì thế, trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi nhớ mong với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.

Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Ở Thu còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.

Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.

Nhân vật chính thứ hai trong tác phẩm là nhân vật ông Sáu. Tình cảm của ông đối với con gái nhỏ được biểu hiện phần nào ở tình huống thứ nhất, trong chuyến về thăm nhà. Cũng như bao người khác ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng ông. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con ông đành ngắm con qua ảnh vậy... Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng lên trong lòng người cha nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu ao ước gặp con.

Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy chiếm hết tâm trí ông. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Hẳn vì quá xúc động nên lúc ấy ông Sáu đã có những cử chỉ mà ngay cả người bạn của ông cũng không ngờ tới “giọng anh tập bập run run”, ông dang hai tay chờ đó con và sải những bước dài đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng ông nhưng không ngờ bỗng nó hét lên “má...má” và bỏ chạy. Hành động của con bé khiến ông sững sờ. Bao yêu thương, mong chờ mà ông dồn nén bấy lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại trong ông là nỗi đau khổ vô bờ.

Nỗi đau ấy còn dày vò ông trong suốt ba ngày ở nhà. Ba ngày ở nhà ông Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với con. Ông muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù đắp những mất mát về tình cảm cho con bé. Dường như ông muốn bằng những cử chỉ và lời nói yêu thương tràn đầy âu yếm, ông sẽ xoa dịu đi những nghi ngờ, xoá tan những lạnh lùng của con bé đối với ông. Người cha muốn ôm con và có lẽ chắc ông cũng mong đứa con gái của mình có thể chạy sà vào lòng. Thế nhưng không... những gì ông từng mơ ước, từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không thật bởi chính thái độ của Thu đối với ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như đánh vào tâm can ông, nhưng ông vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Đến lúc này ông chỉ biết “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi.”

Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên ông Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, ông gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, ông đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do ông quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay ông dồn nén và chất chứa trong lòng.

Song đến giây phút cuối cùng, trước khi ông Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân ông ngập ngừng không muốn bước. Hẳn rằng ông Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại giãy đạp và bỏ chạy nên ông chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của ông, chất chứa bao yêu thương mà ông muốn trao gửi tới con. “Thôi ba đi nghe con”. Cũng chính giây phút ấy, ông nghe thấy từ con tiếng gọi “Ba...a....a...ba”. Tiếng gọi bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà ông Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm nữa. Hạnh phúc đến với ông quá đột ngột khiến cổ ông nghẹn lại. Không kìm được xúc động, ông Sáu đã khóc. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con...Thế là con bé đã gọi ông bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày dạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ ông có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi, từng giây từng phút mong ông quay về.

Tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết ở tình huống thứ hai của câu chuyện, lúc ông Sáu ở rừng. Ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Ông bỗng lóe lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, ông không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quý hiếm - chiếc lược cho con của ông phải được làm bằng thứ quý gí ấy. Và ông không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Ông sẽ đặt vào trong đấy tất cả tình cha con của mình.

Kiếm được ngà voi, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi ông “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao!

Nhưng ngày ấy đó vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Ông không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đó hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đó biến người đồng đội thành một người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.

Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết, sâu nặng, mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

Truyện Chiếc lược ngà diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Qua đó, tác giả khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn. Truyện thành công nổi bật ở nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí, ở ngòi bút miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật, nhất là nhân vật trẻ em.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư