Câu 1: Thiều quang là một từ Hán Việt, trong đó "thiều" có nghĩa là đẹp, rực rỡ, "quang" có nghĩa là ánh sáng. Cụm từ này chỉ ánh sáng đẹp đẽ, rực rỡ của mùa xuân.
Câu 2: Hai câu thơ mở đầu miêu tả thời gian ngày xuân trôi qua nhanh chóng qua hình ảnh "con én đưa thoi" và "thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi". Hình ảnh "con én đưa thoi" gợi lên sự nhanh chóng, vội vã của thời gian. Câu thơ thứ hai cho thấy mùa xuân chỉ còn khoảng một phần ba, gợi cảm giác tiếc nuối trước sự trôi qua mau lẹ của thời gian tươi đẹp.
Câu 3:
Biện pháp tu từ:
Nhân hóa: "con én đưa thoi" khiến cho hình ảnh cánh én trở nên sinh động, tạo cảm giác như thời gian đang trôi nhanh dưới sự thúc giục của những cánh én.
Ẩn dụ: "thiều quang chín chục" ẩn dụ cho mùa xuân (90 ngày) đã trôi qua hơn hai phần ba, chỉ còn lại khoảng một tháng.
Tác dụng:
Nhấn mạnh sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian mùa xuân, khơi gợi sự tiếc nuối và trân trọng những khoảnh khắc đẹp đẽ.
Câu 4:
Đoạn thơ mở đầu trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du gợi lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân đầy sức sống và cảm xúc tinh tế trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian. Hình ảnh "con én đưa thoi" vừa gợi tả cảnh sắc mùa xuân, vừa là phép nhân hóa cho thấy thời gian trôi nhanh như thoi đưa. Cụm từ "thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi" ẩn dụ cho sự ngắn ngủi của mùa xuân, khi thời gian tươi đẹp nhất chỉ còn lại một phần ba. Qua đó, Nguyễn Du thể hiện sự tiếc nuối trước cái đẹp thoáng qua của thiên nhiên và cuộc đời. Hai câu thơ sau lại chuyển sang tả cảnh với hình ảnh "cỏ non xanh tận chân trời" và "cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Bức tranh mùa xuân được mở rộng với những đường nét thanh thoát, nhẹ nhàng. Biện pháp đối lập giữa màu xanh mênh mang của cỏ non và sắc trắng tinh khôi của hoa lê làm nổi bật sự tươi tắn, thanh khiết của thiên nhiên. Bằng việc kết hợp khéo léo các biện pháp tu từ, Nguyễn Du không chỉ vẽ nên cảnh xuân sống động mà còn gửi gắm triết lý nhân sinh về sự trân trọng và ý thức giá trị của từng khoảnh khắc.