Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Ông có những đóng góp nổi bật cho nền văn học dân tộc đặc biệt là mảng thơ nôm, thơ viết về làng quê, thơ trào phúng. Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bạn bè phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực. Châm biếm đả kích bọn thực dân xâm lược, bọn quan lại bán nước thể hiện tấm lòng yêu ái đối với dân với nước. Bài thơ “Chế học trò ngủ gật’’ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến. Tác phẩm viết ra nhằm mục đích nói về một học trò lười biếng ngủ gật trong lúc học cạnh thầy. Đây là bức tranh hài hước viết về cuộc sống học đường ở thời kỳ phong kiến, mang đến nhiều màu sắc mới trong phong cách sáng tác thơ của ông:
“Trò trẹt chi bay học cạnh thầy,
Gật gà gật gưỡng nực cười thay!
Giọng khê nồng nặc không ra tiếng,
Mắt lại lim dim nhấp đã cay.
Đồng nổi đâu đây la liệt đảo,
Ma men chi đấy tít mù say.
Dễ thương bắt chước Chu Y đó,
Quyển có câu thần vậy gật ngay.”
Mở đầu bài thơ bằng cách miêu tả lớp học đầy vui tươi, khi giáo viên đang giảng bài:
“Trò trẹt chi bay học cạnh thầy,
Gật gà gật gưỡng nực cười thay!”
Đó là cảnh lớp học vui tươi với việc sử dụng thể thơ lục bát truyền thống quen thuộc, Nguyễn Khuyến đã đem đến cảm giác gần gũi, dễ hiểu về không khí lớp học. Thế nhưng, trong không khí nghiêm túc đó lại có một cậu học trò ngủ gật. Nguyễn Khuyến đã sử dụng các từ ngữ và hình ảnh hết sức hài hước để diễn tả lại tình huống này. “Gật gà gật gưỡng” ý muốn nói đến trạng thái mơ ngủ, không tỉnh táo khi học bài của cậu học trò nhỏ. Đây là cách sử dụng từ ghép đẳng lập, là cách viết tắt của “ngủ gà, ngủ gật”. Nguyễn Khuyến đã sử dụng từ hài hước, hóm hỉnh mang đến những điệu cười khoái chí cho người đọc.
“Giọng khê nồng nặc không ra tiếng,
Mắt lại lim dim nhấp đã cay.
Đồng nổi đâu đây la liệt đảo,
Ma men chi đấy tít mù say.”
Giáo viên phát hiện ra cậu bé ngủ trong lớp học, cố gắng đánh thức học trò đó bằng mọi cách. Tuy nhiên, cậu học trò vẫn không tỉnh dậy mà còn tiếp tục ngủ sâu hơn. Việc sử dụng các từ láy “nồng nặc”, “lim dim”, “la liệt” diễn tả trạng thái ngủ nực cười của cậu học trò. Các từ ngữ, hình ảnh ấy tạo nên sự đặc sắc trong việc miêu tả trạng thái mệt mỏi và buồn ngủ của cậu học trò. Nguyễn Khuyến đã sử dụng biện pháp nói quá trong những dòng thơ trên. Từ đó làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho bài thơ, làm cho bài thơ trở lên có vần nhịp, nhịp điệu. Khiến cho bài thơ trở nên hóm hỉnh, khôi hài đúng như phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến.
“Dễ thương bắt chước Chu Y đó,
Quyển có câu thần vậy gật ngay.”
Cuối cùng, giáo viên cũng phải nhờ đến sự giúp đỡ của cả lớp mới có thể đánh thức cậu học trò ngủ gật. Nguyễn Khuyến đã sử dụng các từ ngữ và hình ảnh hài hước tạo hiệu ứng và gây tiếng cười cho độc giả. Ông đã đề cập đến việc cậu học trò bắt chước Chu Y, một nhân vật từng xuất hiện trong truyện cổ tích để trốn việc học. Từ “bắt chước” và “câu thần” thể hiện rõ điều đó. Cậu học trò đang cố tìm cách giả vờ học để đánh lừa thầy giáo. Qua đây Nguyễn Khuyến cũng thể hiện tính châm biếm và hài hước của bài thơ. Nếu như những người thầy khác sẽ cảm thấy bực mình, tức giận khi học trò của mình ngủ, không lắng nghe bài giảng của mình. Thế nhưng đến với Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến ông lại làm hoàn toàn trái ngược như vậy. Mặc dù không hài lòng với ý thức học tập của cậu học trò, thế nhưng ông không trách phạt người học trò ấy. Nhà thơ đã dùng cách của mình, hóm hỉnh trêu chọc cậu học trò để cậu nhận ra lỗi sai của mình. Đó là cách nhắc nhở nhẹ nhàng, hết sức tinh tế. Bài thơ cũng là những lời châm biếm, nhắc nhở nhẹ nhàng nhằm chỉ ra trạng thái ngủ gật trong lớp học và ý thức học tập của học sinh trong giai đoạn đấy.
Bằng việc sử dụng ngôn ngữ hài hước, hình ảnh linh hoạt gần gũi cùng các biện pháp tu từ độc đáo Nguyễn Khuyến đã mang đến tiếng cười hài hước cho độc giả. Phê phán thực trạng lười biếng và trốn học của các bạn học sinh. Bài thơ cũng là lời nhắn nhủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tập trung và chăm chỉ trong quá trình học tập