Một là, Đảng đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng 8/1945.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân không ngừng chuẩn bị cho các cuộc nổi dậy, đặc biệt là khi thời cơ lịch sử đến gần. Các giai đoạn cách mạng trước cách mạng tháng Tám đã chứng kiến sự tiến hành của nhân dân dưới sự hướng dẫn của Đảng. Cao trào cách mạng từ 1930 đến 1931 không chỉ là một sự kiện mà là bước đầu tiên quan trọng, chuẩn bị tinh thần và tổ chức cho cách mạng sau này.
Từ cao trào dân chủ 1936 – 1939, đến cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945, mỗi giai đoạn đều là một bài học quan trọng cho quần chúng. Điều đặc biệt là trong thời kỳ kháng Nhật, sự kích thích từ chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12-3-1945 đã thúc đẩy sự khởi nghĩa từng phần của quần chúng, tạo nên làn sóng khởi nghĩa lan rộng và nhanh chóng ở nhiều nơi khác nhau…
Thời kỳ tiền khởi nghĩa không chỉ là lúc quần chúng được chuẩn bị mọi mặt, mà còn là thời điểm mà lòng quyết tâm và sự hy sinh của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là những người trong các tổ chức Cứu quốc, trở nên rõ nét và sâu sắc hơn bao giờ hết trong cuộc đấu tranh cho độc lập.
Hai là, Đảng đã tích cực mạnh mẽ trong việc kêu gọi và thu hút sự ủng hộ từ tầng lớp trung gian đối với cách mạng.
Trong bộ khung lý luận của giai cấp vô sản, việc thu hút sự ủng hộ của tầng lớp trung gian mang lại tầm quan trọng to lớn, mặc dù chúng không có vai trò chủ đạo trong những bước quyết định của lịch sử. Tuy nhiên, khi sự ủng hộ từ tầng lớp trung gian hướng về cách mạng, nó đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự thành công của cách mạng. Ngược lại, nếu Đảng không thể thu hút được sự ủng hộ của tầng lớp trung gian, thì thậm chí khi thời cơ đã chín muồi, cách mạng cũng có thể không đạt được chiến thắng một cách nhanh chóng.
Tình hình khó khăn mà tầng lớp trung gian đối diện là nền tảng để kích thích họ tham gia vào cuộc chiến chống Pháp – Nhật. Tuy nhiên, từ khả năng đến hiện thực lại là một quá trình dài và đầy vận động. Chính sách của Đảng trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám đã bao gồm việc phê bình, điều chỉnh, chỉ đạo lối đi và đặc biệt là sự đoàn kết chân thành để đưa cách mạng đến thành công. Đảng không chỉ đưa ra phê bình mạnh mẽ mà còn hỗ trợ tầng lớp trung gian thiết lập tổ chức của riêng họ để phát huy khả năng phục vụ Tổ quốc. Việc thành lập Đảng dân chủ Việt Nam vào tháng 6 năm 1944 đã làm phong phú thêm thành phần tổ chức của Mặt trận Việt Minh và gia tăng khả năng hút thu họ vào chiến đấu chống Nhật. Tuy nhiên, cho đến cuộc đảo chính của Nhật vào ngày 9-3-1945, sự tham gia của tầng lớp trung gian vào phong trào cách mạng chống Nhật – Pháp vẫn chưa phổ biến.’
Sau đảo chính, nhiều người tầng lớp trung gian đã trải qua sự dao động và sau đó dũng cảm tham gia mạnh mẽ vào phong trào cứu quốc. Một số trong số họ ban đầu đã bị lừa bởi Nhật và lãnh đạo Đại Việt quốc gia, tin rằng đã được ban bố độc lập và tiếp tục sống trong hiểu lầm đó. Những người khác, mặc dù nhận ra Nhật không tốt, nhưng thiếu góc nhìn cách mạng nên còn do dự lợi dụng hoặc tận dụng Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng phòng thủ nếu Pháp quay trở lại, ví dụ như tổ chức Tân Việt Nam Hội. Thậm chí, bộ mặt trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng Kim cũng đã làm nhiều người hiểu lầm…
Trước tình hình này, Đảng đã quyết định phải tiết lộ thực hư về chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim: “Thân phận của nó chỉ giữ vị trí bù nhìn, lời hứa nhiều nhưng thực tế ít, thậm chí thực hành trái ngược với những lời hứa đó. Nhiệm vụ của nó là bảo vệ cho chế độ Nhật và ủng hộ hành động áp bức và lợi ích nhóm với dân.” Những phê bình, sự hỗ trợ của Đảng đã giúp tầng lớp trung gian dần nhận thức và tham gia vào cách mạng. Điều này đã được chứng minh khi vào ngày 13-8-1945, sau khi Nhật đầu hàng, hầu hết tầng lớp trung gian đều ủng hộ cách mạng.
Ba là, Đảng đã tiên phong đề ra chiến lược cách mạng chính xác và sẵn sàng dẫn dắt nhân dân trong cuộc khởi nghĩa để giành lấy quyền lực chính trị.
Từ Hội nghị thành lập Đảng vào năm 1930, Đảng đã nắm bắt nhiệm vụ cốt lõi của cách mạng Việt Nam: “Lật đổ chế độ thực dân Pháp và quân phiến quân, thúc đẩy độc lập toàn diện cho nước Nam”. Chiến lược và chiến lược của Đảng đã được xác định từ ban đầu và liên tục điều chỉnh, mở rộng phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt, Hội nghị thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương (5-1941) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo Nguyễn Ái Quốc đã đề ra chiến lược mới cho cách mạng. Hội nghị đã quyết định tạm dừng khẩu hiệu cải cách ruộng đất để mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đồng thời, nhấn mạnh: “Nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc và độc lập toàn diện cho dân, không chỉ quốc gia mà cả các tầng lớp, giai cấp sẽ chịu mãi sự áp bức, và quyền lợi của họ sẽ không được bảo vệ”. Hội nghị đã thúc đẩy việc thành lập Mặt trận Việt Minh và chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa.