câu 3 : Điều đáng lo ngại là mức độ hiệu quả thông qua tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất của giai đoạn 2014 – 2018 kém hơn giai đoạn 2008 - 2013 ở hầu hết các ngành kinh tế. Nếu giai đoạn 2008 - 2013 tỷ lệ giá trị tăng thêm so với giá trị sản xuất khoảng 36% thì giai đoạn 2013- 2018 cho thấy tỷ lệ này giảm xuống 28%. Mức sụt giảm mạnh mẽ nhất là ở nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo, phần nào phản ánh mức độ gia công của nền kinh tế Việt Nam ngày càng cao.
Mong muốn của chúng ta đối với những ngành kinh tế trọng điểm là chúng có tác động mạnh tới gia tăng thu nhập, đồng thời ít gây gia tăng nhập khẩu và ít ảnh hưởng xấu tới môi trường. Tuy nhiên trên thực tế chỉ có nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản và khối ngành dịch vụ phần nào đáp ứng đòi hỏi này, trong khi hầu hết những ngành thuộc công nghiệp chế biến chế tạo tuy có chỉ số lan tỏa và độ nhạy cao nhưng lại kích thích mạnh đến nhập khẩu và lan tỏa đến thu nhập ở mức thấp hơn mức bình quân chung khá nhiều. Đây dường như là một bằng chứng mạnh mẽ nữa cho xu hướng gia công hóa của nền công nghiệp Việt Nam ngày càng toàn diện.
Các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo không chỉ tác động hạn chế tới tăng thu nhập, thúc đẩy nhập khẩu cao, mà còn là thủ phạm chính gây nên phát thải nhà kính. Đáng chú ý là lượng phát thải gây hiệu ứng nhà kính đang có xu hướng tăng lên. Ngành phát thải ra hiệu ứng nhà kính cao nhất là nhóm ngành sản xuất các sản phẩm khoáng phi kim loại, cao hơn mức bình quân chung 3,3 lần, sau đó là nhóm ngành xây dựng (2,39 lần), nhóm nông, lâm nghiệp và thủy sản (2,36 lần). Nhiều ngành công nghiệp khác cũng có mức phát thải hiệu ứng nhà kính cao hơn mức bình quân chung của nền kinh tế, như các ngành: cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải; công nghiệp chế biến chế tạo khác; sản xuất thực phẩm, đồ uống và thuốc lá; khai khoáng…
Như vậy, thực trạng diễn ra trong hơn chục năm qua và những dấu hiệu trong tương lại cho thấy các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp Việt Nam đang dần bị chiếm lĩnh thay thế bới khu vực FDI. Năng suất lao động của khu vực FDI có thể sẽ tăng lên, GDP cũng có thể tăng lên nhưng lợi ích kinh tế của người dân Việt Nam không tăng tương xứng, trong khi phải gánh chịu thiệt hại về môi trường. Luồng tiền chảy ra do FDI chuyển sở hữu về nước sẽ càng nhiều và nguồn lực tiết kiệm của nền kinh tế dành cho khu vực doanh nghiệp trong nước nhiều khả năng sẽ ngày càng bị thu hẹp. Thực trạng trên đòi hỏi Việt Nam cần nhanh chóng sửa đổi cấu trúc kinh tế và không nên ám ảnh bới tăng trưởng GDP.