Giới trẻ đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ở mỗi quốc gia vì đó là một lực lượng đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Khi còn sinh thời, trong một lần nói chuyện với học sinh (HS), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.”
Thế nhưng, một thực tế đang báo động là lối sống đạo đức của một bộ phận HS đang đi xuống do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. Nhưng nếu chúng ta cứ mãi tìm giải pháp để ngăn chặn những tác động mang tính khách quan, lại không nghiêm khắc với chính mình thì vấn đề không thể nào giải quyết được. Chính vì vậy, bài viết này sẽ khái quát thực trạng đạo đức HS, phân tích hai nguyên nhân được xem là cơ bản, đồng thời đề xuất một vài giải pháp được đúc kết từ kết quả quan sát thực tiễn và từ các nghiên cứu trong nước và quốc tế.
2. Thực trạng đạo đức HS và nguyên nhân nội tại
Theo kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu và Phát triển Giáo dục, tình hình vi phạm các chuẩn mực đạo đức của HS là khá nghiêm trọng. Có đến 8% HS tiểu học thực hiện hành vi quay cóp trong thi cử và tỉ lệ gia tăng ở các cấp học trên: HS THCS là 55% và HS THPT là 60%. Hành vi nói dối cha mẹ cũng gia tăng theo cấp học: tiểu học là 22%, trung học cơ sở là 50%, trung học phổ thông là 64% (Trần Hữu Quang, 2012). Vì thế, nhận xét của hai tác giả Đặng Văn Chương và Trần Đình Hùng (2012) làm cho những ai có trách nhiệm phải suy ngẫm: “Càng học lên cao thì số HS, sinh viên vi phạm đạo đức càng tăng lên.” Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, có khoảng 1.600 vụ HS đánh nhau ở trong và ngoài trường học trong một năm học, tính trên phạm vi toàn quốc, trung bình xảy ra khoảng 5 vụ/ngày (Mai Chi, 2017).
Nghiên cứu của tác giả Lê Duy Hùng (2013) về đạo đức của HS tại ba trường THPT tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy tỉ lệ HS vi phạm các chuẩn mực đạo đức là không nhỏ. Hành vi vi phạm phổ biến nhất là: chửi thề, chửi bậy; gây gổ, đánh nhau; trốn học, bỏ giờ và gian lận trong thi cử. Tỉ lệ 50% HS được khảo sát cho biết thỉnh thoảng có chửi thề và 12% thường xuyên có những hành vi đó. Tình trạng báo động HS gây gổ đánh nhau, trong đó không chỉ có HS nam mà còn có cả HS nữ. Một tỉ lệ đáng kể (34,2% HS) cho biết là thỉnh thoảng có thực hiện hành vi gây gổ, đánh nhau. Bên cạnh đó, hành vi bỏ giờ, trốn học cũng trở thành phổ biến. Có đến 26,7 % HS được khảo sát thừa nhận thỉnh thoảng và 7,5% cho biết là thường xuyên.
Khảo sát về thực trạng đạo đức của HS tại 5 trường THCS tại TP. Hà Nội, tác giả Nguyễn Thị Thi (2017) cũng đã có một thống kê về hàng loạt hành vi vi phạm đạo đức như: vi phạm quy chế thi cử, gây gổ đánh nhau, bỏ giờ trốn học, trộm cắp, thiếu tôn trọng thầy cô, …
Tình trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận giới trẻ nói chung và HS nói riêng không chỉ là kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu và theo dõi phản ánh của giới truyền thông, trong Văn kiện Đại hội Đảng khóa X (Đảng CSVN, 2006), Đảng ta cũng đã nhận định “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong giới trẻ”.
3. Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân khách quan như tác động của internet, điện thoại thông minh, mạng xã hội, phim ảnh, âm nhạc,… nhưng cần thiết phải ‘tự soi lại chính mình’ bằng việc xem xét lại hai nguyên nhân cơ bản xuất phát từ gia đình và nhà trường. Tại hội nghị quốc tế lần thứ 5 về giáo dục thế giới năm 2012 với chủ đề “Giáo dục đang đối mặt với những vấn đề đương đại thế giới”, hai chuyên gia Clipa và Lorga (2012) đã khẳng định gia đình và nhà trường là hai yếu tố quan trọng bậc nhất ảnh hưởng đến việc hình thành đạo đức HS. Tuy nhiên, hai yếu tố then chốt này xét trong bối cảnh Việt Nam đang có vấn đề bởi:
3.1. Gia đình thiếu quan tâm hoặc là giáo dục con em mình không đúng cách
Nghiên cứu của hai tác giả Lê Duy Hùng (2013) và Nguyễn Thị Thi (2017) như đã nêu trên đều thể hiện sự thiếu quan tâm của gia đình là nguyên nhân đầu tiên ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống đạo đức của các em.
Qua khảo sát về đời sống đạo đức của thanh thiếu niên đang tham gia sinh hoạt tại Thiền viện Trúc Lâm Chính Pháp (tỉnh Tuyên Quang), chúng tôi đã ghi nhận vài câu chuyện để làm rõ hơn về nguyên nhân trên. Một HS lớp 10 cho biết em giao tiếp rất tốt với mọi người xung quanh, trừ cha mẹ của em. Khi được hỏi về nguyên nhân, em kể rằng cha mẹ của em thường xuyên mắng chửi em và không bao giờ có những lời nói êm dịu khi nói chuyện với em. Một HS lớp 10 khác cũng kể rằng cha em thường la mắng em một cách vô cớ cho nên em rất buồn và sợ giao tiếp với cha. Khi chúng tôi tiếp xúc để phỏng vấn mẹ của em, mẹ của em xác nhận sự việc nêu trên là có thật, mà nguyên nhân là do công việc kinh doanh không thuận lợi nên cha em hay cáu gắt với mọi người trong gia đình. Một HS lớp 12 kề rằng em thường xuyên tránh gặp mặt bà của em. Nguyện vọng của em là học ngành Công nghệ thực phẩm để trở thành một đầu bếp trong tương lai nhưng nguyện vọng chính đáng ấy gặp sự phản đối quyết liệt của người bà vì bà em cho rằng chọn nghề nào là phải đến đền để cầu thánh phán cho. Vì vậy, mỗi lần gặp mặt em là bà buộc em đến đền cùng bà (Lê Tấn Lộc, 2018).
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã quan sát và ghi nhận lại một vài tình huống thực tế đáng lưu tâm. Một người mẹ chở con đến trường. Ngồi phía sau lưng mẹ, cô bé uống hết hộp sữa và cầm mãi chiếc hộp rỗng trên tay. Người mẹ quay lại phía sau giục cô vứt chiếc hộp xuống đường. Cô bé do dự và bị mẹ quay lại quát mắng. Hay một người mẹ trước khi rời khỏi nhà đi làm, căn dặn con mình ở nhà nếu hàng xóm có sang mượn thứ gì thì đều trả lời là không có. Qua quan sát một số trường hợp khác, chúng tôi nhận thấy phần lớn phụ huynh có khuynh hướng to tiếng quát nạt con mình để bày tỏ sự không hài lòng với con về một điều gì đó. Làm như thế cứ tưởng rằng con mình sẽ sợ và sẽ ngoan hơn nhưng đâu biết rằng theo nghiên cứu của Quỹ Tâm lý học Ca-na-đa (2012), việc phụ huynh mắng chửi, lên lớp, hay biểu hiện tức giận đối với con cái trong độ tuổi vị thành niên không có tác dụng tích cực mà chỉ làm cho con cái mình phản ứng lại một cách tiêu cực.