Giữa thế kỷ XIX, Việt Nam bị đế quốc Pháp xâm lược và thống trị. Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là các giai cấp cần lao, rơi vào số phận nô lệ. Quyền độc lập, quyền sống và quyền con người bị chà đạp.
Khát vọng giải phóng ấp ủ từ lâu trong lòng dân tộc Việt Nam càng thêm nung nấu. Muốn sống, muốn độc lập, tự do thì phải đấu tranh, phải làm cách mạng. Song, tất cả các cuộc vận động cứu nước của các sĩ phu theo cách thức phong kiến và các cuộc vận động cách mạng theo xu hướng tư sản đương thời đều lần lượt thất bại. Giai cấp công nhân và phong trào công nhân Việt Nam chưa trở thành một lực lượng chính trị độc lập trong phong trào dân tộc. Những đám mây đen vẫn bao phủ bầu trời Việt Nam.
Giữa lúc đó, Nguyễn Tất Thành người thanh niên yêu nước và cấp tiến đã xuất dương (6/1911) để tìm hiểu cuộc sống của các dân tộc, nghiên cứu, tìm tòi con đường giải phóng cho dân tộc mình.
Sau nhiều năm bôn ba qua các lục địa, hoạt động và khảo sát cách mạng, Người đã vượt qua nhiều thử thách về lập trường yêu nước, tích tụ được vốn tri thức sâu rộng nhiều mặt về cuộc đấu tranh của các dân tộc bị nô dịch và của giai cấp công nhân Âu, Mỹ.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Tất Thành lấy tên mới là Nguyễn Ái Quốc, tích cực hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và đã nhanh chóng trở thành một chiến sĩ cách mạng nhiệt tình, trở thành đảng viên Đảng xã hội Pháp, chính đảng của giai cấp công nhân Pháp. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin với xiết bao sung sướng như người đi đường đang khát gặp nước uống, đang đói mệt có cơm ăn, đang đi trong bóng tối gặp nguồn ánh sáng, bởi Người coi đây là một cẩm nang thần kỳ cho con đường giải phóng dân tộc. Tại Đại hội Tous tháng 12/1920 Người đã dứt khoát đứng về phía Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Bằng trí tuệ sáng suốt, hoạt động và khảo sát cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được chân lý cách mạng giải phóng dân tộc: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Người kêu gọi phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa và khẳng định chế độ cộng sản có thể áp dụng ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng. "Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương...
Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi".
Giữa những năm 20 của thế kỷ này, Nguyễn Ái Quốc quyết định tìm đường trở về Tổ quốc để phát động và tổ chức phong trào cách mạng của nhân dân, của dân tộc Việt Nam, trước hết là chuẩn bị tổ chức ra một đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc ta. Vì muốn làm cách mạng thắng lợi trước hết phải có đảng cách mạng, đảng có vững thì cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững thì phải có lý luận cách mạng, nhất là chủ nghĩa Lênin.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội), một tổ chức "quá độ" đặt cơ sở cho một Đảng Cộng sản về sau. Người ra báo Thanh niên, huấn luyện, đào tạo cán bộ, tổ chức tuyên truyền lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Lênin, tư tưởng cách mạng của Người vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam; cách mạng hoá quần chúng và dân tộc, nâng nhân dân và dân tộc ta vươn lên ngang tầm cách mạng của thời đại. Phong trào cách mạng của nhân dân ta ngày càng phát triển mạnh và có ý thức chính trị vô sản rõ rệt.
Sự kết hợp ngày càng chặt chẽ chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước sục sôi của nhân dân ta đã thúc đẩy sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Tháng 3/1929, chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại nhà số 5D phố Hàm Long, Hà Nội, gồm có bảy đảng viên: Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Đức Cảnh, Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân. Chi bộ chủ trương phải tích cực vận động thành lập một Đảng Cộng sản thay tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày 17/6/1929, tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở đảng ở miền Bắc đã họp quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, quyết định xuất bản báo Búa Liềm - cơ quan ngôn luận của Đảng - và cử ra Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.
Căn cứ vào tình hình kinh tế, xã hội và chính trị ở Đông Dương lúc này, Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng đã xác định tính chất của cuộc cách mạng ở Đông Dương trong thời kỳ đầu tiên là tư sản dân chủ cách mệnh. Nhiệm vụ của giai cấp vô sản phải thực hiện khối công nông liên hiệp để:
- Đánh đuổi đế quốc Pháp.
- Đánh đổ địa chủ, chế độ phong kiến và các cách bóc lột tiền tư bản, thực hiện cách mạng ruộng đất.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929) đã nhận định việc "tổ chức một đảng cộng sản để lãnh đạo toàn cuộc cách mệnh ở Việt Nam là một sự nhu yếu đặc biệt". Vì vậy sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, các đồng chí tiên tiến hoạt động trong bộ phận Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Trung Quốc nhận định việc thành lập một Đảng Cộng sản là phù hợp với yêu cầu của phong trào cách mạng trong nước và quyết định hành động nhanh chóng để thành lập một đảng cộng sản tập trung, đúng với điều lệ của Đệ tam Quốc tế.
Ngày 25/7/1929, trong một bức thư của các đồng chí tiên tiến trong bộ phận Việt Nam Cách mạng thanh niên đồng chí hội hoạt động ở Trung Quốc gửi cho Đông Dương Cộng sản Đảng báo tin rằng các đồng chí đó định tổ chức một Đảng Cộng sản bí mật còn "Thanh niên" thì cứ giữ nguyên để chỉnh đốn lại. Các chi bộ cộng sản lần lượt được thành lập ở Nam kỳ, ở Trung kỳ và ở Xiêm. Các đảng viên hoạt động ở Trung Quốc được tập hợp trong một chi bộ mang tên chi bộ An Nam Cộng sản Đảng, chi bộ này đã liên lạc và được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc và đã liên lạc với Quốc tế Cộng sản. Theo Hồng Thế Công, An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8/1929. Đảng có cơ sở quần chúng ở các xí nghiệp và trong giới thợ thủ công ở Sài Gòn và một số tỉnh ở phía Nam. An Nam Cộng sản Đảng đã nhiều lần gửi thư cho Đông Dương Cộng sản Đảng bàn việc hợp nhất đảng, song không đạt được sự nhất trí.
Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929) và An Nam Cộng sản Đảng (8/1929) đã có tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá của đảng Tân Việt. Những phần tử tiên tiến của Tân Việt đã tách ra lập các chi bộ cộng sản, xúc tiến việc chuẩn bị thành lập đảng cộng sản. Tháng 9/1929, bản Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã tuyên bố: "Những người giác ngộ Cộng sản chân chính trong Tân Việt cách mệnh đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt cách mệnh đảng, toàn thể thợ thuyền, dân cày và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Đông Dương Cộng sản liên đoàn lấy chủ nghĩa Cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh để thực hành cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của chúng ta hoàn toàn độc lập, xoá bỏ nạn người bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ công nông chuyên chính, tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông Dương".
Như vậy, trong vòng không đầy bốn tháng (từ giữa tháng 6 đến tháng 9/1929) đã có ba tổ chức đảng ở Việt Nam lần lượt tuyên bố thành lập. Cơ sở tổ chức đảng và cơ sở quần chúng của đảng đã phát triển khắp cả ba miền. Sự ra đời nhanh chóng các tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại ba đảng biệt lập có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước.
Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản Đông Dương nhấn mạnh rằng: "Xu hướng chia rẽ của các nhóm và sự tranh đấu lẫn nhau sẽ có ảnh hưởng rất hại cho cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương. Nhiệm vụ... tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sáng lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản... Đảng ấy phải là một đảng độc nhất và ở Đông Dương chỉ có một đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi. Phải hợp nhất lại các phần tử chân chính cộng sản đương ở trong các nhóm cộng sản bây giờ để lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương"
Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để bàn việc thống nhất thành một đảng. Hội nghị họp tại Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Tham dự hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh là đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu là đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng.
Người đã nói rõ với các đại biểu về những sai lầm của các Đảng và họ đã nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để lập ra một đảng duy nhất lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vǎn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và các Điều lệ vắn tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội phản đế đồng minh và Hội cứu tế do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Chánh cương vắn tắt của Đảng nêu rõ: "Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Chánh cương vắn tắt đã nêu ra nhiệm vụ của cuộc cách mạng đó về các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông, thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo, miễn thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm tám giờ, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hoá.
Sách lược vắn tắt xác định:
"1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.
3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.
4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến,...) thì phải đánh đổ.
5. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường lối thoả hiệp, trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp".
Chương trình tóm tắt nêu rõ:
"1. Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ nǎng lực lãnh đạo quần chúng.
2. Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến.
3. Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản.
4. Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản; Đảng tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư bản bậc trung, đánh đổ các đảng phản cách mạng như Đảng Lập hiến,...
5. Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác.
Đảng phổ biến khẩu hiệu "Việt Nam tự do" và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp".
Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu rõ tôn chỉ: "Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản".
Nhân dịp Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết Lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức, bóc lột. Lời kêu gọi có đoạn:
"Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng để:
1. Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng.
2. Làm cho nước An Nam được độc lập.
3. Thành lập Chính phủ công nông binh.
4. Tịch thu tất cả các nhà bǎng và cơ sở sản xuất của đế quốc trao cho Chính phủ công nông binh.
5. Quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng An Nam chia cho nông dân nghèo.
6. Thực hiện ngày làm 8 giờ.
7. Hủy bỏ mọi thứ quốc trái và thuế thân, miễn các thứ thuế cho nông dân nghèo.
8. Đem lại mọi quyền tự do cho nhân dân.
9. Thực hành giáo dục toàn dân.
10. Thực hiện nam nữ bình quyền".
Hội nghị đã quyết định thành lập cơ quan ngôn luận, tuyên truyền của Đảng là tạp chí Đỏ và báo Tranh Đấu.
Hội nghị kết thúc, các đại biểu trở về nước ngày 8/2/1930.
Sau khi về nước các đại biểu đã tích cực thực hiện kế hoạch hợp nhất các cơ sở đảng ở trong nước, lập ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng gồm có bảy uỷ viên: Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo, do Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Tiếp đến các xứ ủy cũng được thành lập. Đỗ Ngọc Du là Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ, Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Xứ ủy Trung kỳ, và Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ.
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Song Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vẫn còn là một đảng riêng lẻ. Việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản liên đoàn vào Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là một yêu cầu khách quan. Trong bản báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nhận định: "ở Trung kỳ, một tổ chức cộng sản mới ra đời gồm những phần tử ưu tú nhất của Đảng Tân Việt... Tổ chức cộng sản mới này vẫn còn là một tổ chức riêng lẻ, nhưng chúng tôi tin chắc rằng sắp đến, tổ chức này sẽ hợp nhất với chúng tôi".
Trong bản Tuyên đạt thành lập đảng của mình, Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng chủ trương phải hợp nhất với Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng "thành một tổ chức cộng sản ở xứ Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất mới có thể thực hiện cách mạng cộng sản". Vì thế, sau Hội nghị hợp nhất, Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã yêu cầu gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24/2/1930, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu cùng với hai uỷ viên của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời là Hoàng Quốc Việt và Phạm Hữu Lầu cùng Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã họp quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cả ba tổ chức cộng sản Việt Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một đảng cộng sản duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam mang tầm vóc lịch sử của một Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng ra đời là một mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm 20 của thế kỷ XX.
Nguyễn Ái Quốc là người có công đầu trong việc tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, người sáng lập ra Đảng và vạch ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam - một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn. Độc lập tự do là tư tưởng chủ yếu, là viên ngọc quý nhất được khảm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Vừa mới ra đời "Đảng ta liền gương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong".
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời giữa lúc chủ nghĩa tư bản diễn ra cuộc khủng hoảng sâu sắc về kinh tế và ở Đông Dương thì "sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết". Chính vì vậy một làn sóng đấu tranh dân tộc và dân chủ sôi nổi đã diễn ra trong toàn quốc, dẫn đến đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp và tay sai trở nên quyết liệt và đẫm máu. Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, vừa mới ra đời đã bước ngay vào cuộc thử thách trên cương vị tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh đó của dân tộc.
Tháng 4/1930, Trần Phú sau một thời gian học tập ở Liên Xô, đã về nước hoạt động. Ban thường vụ Trung ương bố trí Trần Phú đi khảo sát phong trào công nhân và nông dân một số vùng ở Bắc kỳ.
Tháng 7/1930, Trần Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và được phân công cùng với Ban thường vụ chuẩn bị cho kỳ họp thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Luận cương chính trị, nghị quyết "về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng", các nghị quyết về công nhân vận động, về nông dân vận động, về cộng sản thanh niên vận động, về phụ nữ vận động, về quân đội vận động, về vấn đề cứu tế, về điều lệ của Đảng Cộng sản Đông Dương và điều lệ của các tổ chức quần chúng.
Luận cương nêu rõ mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt trong xã hội Việt Nam, Lào và Campuchia là "một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ nghĩa". Vì thế, lúc đầu cách mạng Đông Dương là cuộc "Cách mạng tư sản dân quyền", có "tánh chất thổ địa và phản đế". "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Tư sản dân quyền cách mạng được thắng lợi, chánh phủ công nông đã dựng lên rồi thì công nghiệp trong nước phát triển... quyền lãnh đạo của vô sản sẽ thêm kiên cố..., xứ Đông Dương sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chánh các nước giúp sức cho mà phát triển bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa". "Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được".
Nhiệm vụ "cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa".
Và "điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác - Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả vô sản giai cấp ở Đông Dương và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".
Để thực hiện được nhiệm vụ của Đảng trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, Đảng phải coi trọng vận động tập hợp lực lượng đại đa số quần chúng, lãnh đạo đấu tranh đòi các quyền lợi trước mắt, đưa dần quần chúng lên trận tuyến cách mạng và đến khi tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện thì phát động quần chúng võ trang bạo động, đánh đổ chính quyền của giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền cho công nông...
Cách mạng Đông Dương phải liên lạc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa và bán thuộc địa thế giới...
Bản Nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng của Trung ương đã nhận định phong trào cách mạng của quần chúng công nông, chống đế quốc, tư bản và địa chủ đã diễn ra sâu sắc, càng ngày càng có tánh chất kịch liệt, tánh chất chính trị, tánh chất tổ chức, càng ngày càng chịu ảnh hưởng và chỉ huy của Đảng Cộng sản... và thoát ly ảnh hưởng quốc gia.
Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là phải mở rộng phong trào đấu tranh của quần chúng, bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức của Đảng, trong đó có Trần Phú, Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, Trần Văn Lan, Nguyễn Phong Sắc... Ban Thường vụ gồm có Trần Phú, Ngô Đức Trì và Nguyễn Trọng Nhã. Tổng Bí thư là Trần Phú.
Tiếp theo Hội nghị thành lập Đảng, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930, đã giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về đường lối chính trị, về tổ chức,... của Đảng - những vấn đề có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của cách mạng nước ta, đặc biệt là đã thông qua bản Luận cương chính trị của Đảng.
Bản Luận cương chính trị đã xác định nhiều vấn đề thuộc chiến lược cách mạng. Song, bản Luận cương đó cũng đã bộc lộ một số nhược điểm. Trải qua quá trình thực tiễn đấu tranh cách mạng, những nhược điểm đó đã được các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp theo dần dần khắc phục.
Nǎm 1930-1931, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có nhiều cố gắng để chỉ đạo phong trào cách mạng, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc có tính chất "tả" khuynh hoặc hữu khuynh trong chỉ đạo và tổ chức ở một số địa phương.
Tháng 3/1931, giữa lúc địch khủng bố ác liệt phong trào quần chúng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ hai ở Sài Gòn, dưới sự chủ trì của Trần Phú. Sau Hội nghị không lâu, các uỷ viên trong Ban Chấp hành Trung ương lần lượt bị sa lưới của địch, Trần Phú cũng bị bắt ở Sài Gòn (4/1931) và đã hy sinh ngày 6/9/1931. Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ hoạt động ở nước ngoài cũng bị đế quốc Anh bắt ở Hương Cảng (6/1931). Các cơ sở của tổ chức đảng cũng bị địch đánh phá ác liệt. Đảng bước vào một cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để duy trì tổ chức đảng và phong trào cách mạng.