Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cuộc đời và sự nghiệp, những tác phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ MÔ - DA

cuộc đời và sự nghiệp , những tác phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ MÔ DA

7 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
1.732
1
1
트란 타이 투안
19/06/2020 15:45:46
+5đ tặng

Wolfgang Amadeus Mozart là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất trong lịch sử âm nhạc. Mặc dù ông đã mất trước ngày sinh nhật lần thứ 36 của mình nhưng Mozart đã để lại hơn 600 tác phẩm.



Chân dung của Wolfgang Amadeus Mozart - Ảnh: en.wikipedia.org

Mozart sinh ngày 27 tháng 1 năm 1756 tại Salzburg. Cha của ông, Leopold là một nhà soạn nhạc, một giáo viên dạy vi-ô-lông và chỉ huy của một dàn nhạc giao hưởng địa phương.

Wolfgang biết chơi đàn Cla-vơ-xanh khi mới lên 3. Khi vừa tròn 5 tuổi, ông đã có thể soạn một bài độc tấu pi-a-nô. Ông soạn bản giao hưởng đầu tiên khi lên 9 và một vở nhạc kịch ở tuổi 12. Wolfgang chưa bao giờ đến trường. Cha ông đã dạy cho ông ngôn ngữ, địa lý, lịch sử, toán học và tất nhiên không thể thiếu âm nhạc.

Mozart sinh ra trong một gia đình đầy ấp yêu thương. Ông thích chơi hợp tấu với chị của mình và ông rất thân thiết với mẹ.

Trong các tour diễn vòng quanh châu Âu, nơi mà ông phải biểu diễn trước mặt các vị vua, hoàng hậu và giới quý tộc của các nước khác, Leopold thường dắt theo Mozart. Khi trở lại Salzburg, Mozart bắt đầu làm việc cho tổng giám mục. Tuy nhiên, ông không thực sự hạnh phúc tại Salzburg. Ông không được trả công xứng đáng và tổng giám mục cũng không quan tâm nhiều đến âm nhạc.

Năm 1781, Mozart rời Salzburg để đến Vienna, một thị trấn nơi mà âm nhạc rất được xem trọng. Ở đây ông đã làm rất nhiều việc nhưng ông vẫn không thể trở nên giàu có. Một năm trước khi đến Vienna, Mozart kết hôn với Constanze Weber.

Mặc dù ông đã làm việc rất chăm chỉ, Wolfgang không thể kiếm đủ tiền để lo cho gia đình của mình. Sức khỏe của ông bắt đầu trở nên yếu đi và vào ngày 5 tháng 12 năm 1791, ông qua đời, có lẽ là do suy thận.

Âm nhạc của Mozart

Mozart là một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ nổi tiếng sau khi ông qua đời và ngày nay, mọi người ở mọi lứa tuổi đều thích phong cách âm nhạc nhịp nhàng của Mozart. Ông đã soạn hơn 40 bản giao hưởng. Một số bản là khúc dạo đầu của những vở nhạc kịch và kéo dài chỉ một vài phút, nhưng những bản khác là những tác phẩm âm nhạc thực sự với 4 phần và kéo dài trong nửa giờ. Bản giao hưởng cuối cùng và nổi tiếng nhất của ông là Nr. 41, có tên thường gọi là Jupiter.

Trong số 22 vở nhạc kịch của ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới. The Marriage of Figaro (1786) và Don Giovanni (1787) là 2 vở nhạc kịch mà Mozart sáng tác bằng tiếng Ý. The Magic Flute có lẽ là vở nhạc kịch được viết bằng tiếng Đức nổi tiếng nhất của ông.

Wolfgang cũng sáng tác nhạc dành cho nhà thờ, chủ yếu là các nhà thờ ở Salzburg. Nhạc cụ chính của các tác phẩm này là đàn ọc-gan. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông là Requiem (Mass for the Dead) đây là tác phẩm mà ông đã bắt đầu vào năm 1791 nhưng không thể hoàn thành trước khi qua đời.

Mozart cũng soạn những tác phẩm âm nhạc nhẹ nhàng và du dương được gọi là các bản dạ khúc, những tác phẩm này thường được biểu diễn tại các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một trong những bản dạ khúc nổi tiếng nhất của ông là “A Little Night Music”.

Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Mozart chỉ tập trung vào sáng tác những tác phẩm được chơi bởi một hoặc hai nhạc cụ. Ông thích viết những bản tứ tấu dành cho hai cây vĩ cầm, một cây đại hồ cầm và một cây vi-ô-lông-xen. Ông cũng soạn những bản sô-nát dành cho vi-ô-lông, pi-a-nô và kèn flute.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
I love Handsome
19/06/2020 15:46:25
+4đ tặng

Âm nhạc của Mozart

Mozart là một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ nổi tiếng sau khi ông qua đời và ngày nay, mọi người ở mọi lứa tuổi đều thích phong cách âm nhạc nhịp nhàng của Mozart. Ông đã soạn hơn 40 bản giao hưởng. Một số bản là khúc dạo đầu của những vở nhạc kịch và kéo dài chỉ một vài phút, nhưng những bản khác là những tác phẩm âm nhạc thực sự với 4 phần và kéo dài trong nửa giờ. Bản giao hưởng cuối cùng và nổi tiếng nhất của ông là Nr. 41, có tên thường gọi là Jupiter.

Trong số 22 vở nhạc kịch của ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới. The Marriage of Figaro (1786) và Don Giovanni (1787) là 2 vở nhạc kịch mà Mozart sáng tác bằng tiếng Ý. The Magic Flute có lẽ là vở nhạc kịch được viết bằng tiếng Đức nổi tiếng nhất của ông.

Wolfgang cũng sáng tác nhạc dành cho nhà thờ, chủ yếu là các nhà thờ ở Salzburg. Nhạc cụ chính của các tác phẩm này là đàn ọc-gan. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông là Requiem (Mass for the Dead) đây là tác phẩm mà ông đã bắt đầu vào năm 1791 nhưng không thể hoàn thành trước khi qua đời.

Mozart cũng soạn những tác phẩm âm nhạc nhẹ nhàng và du dương được gọi là các bản dạ khúc, những tác phẩm này thường được biểu diễn tại các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một trong những bản dạ khúc nổi tiếng nhất của ông là “A Little Night Music”.

Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Mozart chỉ tập trung vào sáng tác những tác phẩm được chơi bởi một hoặc hai nhạc cụ. Ông thích viết những bản tứ tấu dành cho hai cây vĩ cầm, một cây đại hồ cầm và một cây vi-ô-lông-xen. Ông cũng soạn những bản sô-nát dành cho vi-ô-lông, pi-a-nô và kèn flute.

Âm nhạc của Mozart

Mozart là một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ nổi tiếng sau khi ông qua đời và ngày nay, mọi người ở mọi lứa tuổi đều thích phong cách âm nhạc nhịp nhàng của Mozart. Ông đã soạn hơn 40 bản giao hưởng. Một số bản là khúc dạo đầu của những vở nhạc kịch và kéo dài chỉ một vài phút, nhưng những bản khác là những tác phẩm âm nhạc thực sự với 4 phần và kéo dài trong nửa giờ. Bản giao hưởng cuối cùng và nổi tiếng nhất của ông là Nr. 41, có tên thường gọi là Jupiter.

Trong số 22 vở nhạc kịch của ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới. The Marriage of Figaro (1786) và Don Giovanni (1787) là 2 vở nhạc kịch mà Mozart sáng tác bằng tiếng Ý. The Magic Flute có lẽ là vở nhạc kịch được viết bằng tiếng Đức nổi tiếng nhất của ông.

Wolfgang cũng sáng tác nhạc dành cho nhà thờ, chủ yếu là các nhà thờ ở Salzburg. Nhạc cụ chính của các tác phẩm này là đàn ọc-gan. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông là Requiem (Mass for the Dead) đây là tác phẩm mà ông đã bắt đầu vào năm 1791 nhưng không thể hoàn thành trước khi qua đời.

Mozart cũng soạn những tác phẩm âm nhạc nhẹ nhàng và du dương được gọi là các bản dạ khúc, những tác phẩm này thường được biểu diễn tại các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một trong những bản dạ khúc nổi tiếng nhất của ông là “A Little Night Music”.

Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Mozart chỉ tập trung vào sáng tác những tác phẩm được chơi bởi một hoặc hai nhạc cụ. Ông thích viết những bản tứ tấu dành cho hai cây vĩ cầm, một cây đại hồ cầm và một cây vi-ô-lông-xen. Ông cũng soạn những bản sô-nát dành cho vi-ô-lông, pi-a-nô và kèn flute.

0
2
buồn
19/06/2020 15:46:33
+3đ tặng

Wolfgang Amadeus Mozart là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất trong lịch sử âm nhạc. Mặc dù ông đã mất trước ngày sinh nhật lần thứ 36 của mình nhưng Mozart đã để lại hơn 600 tác phẩm.



Chân dung của Wolfgang Amadeus Mozart - Ảnh: en.wikipedia.org

Mozart sinh ngày 27 tháng 1 năm 1756 tại Salzburg. Cha của ông, Leopold là một nhà soạn nhạc, một giáo viên dạy vi-ô-lông và chỉ huy của một dàn nhạc giao hưởng địa phương.

Wolfgang biết chơi đàn Cla-vơ-xanh khi mới lên 3. Khi vừa tròn 5 tuổi, ông đã có thể soạn một bài độc tấu pi-a-nô. Ông soạn bản giao hưởng đầu tiên khi lên 9 và một vở nhạc kịch ở tuổi 12. Wolfgang chưa bao giờ đến trường. Cha ông đã dạy cho ông ngôn ngữ, địa lý, lịch sử, toán học và tất nhiên không thể thiếu âm nhạc.

Mozart sinh ra trong một gia đình đầy ấp yêu thương. Ông thích chơi hợp tấu với chị của mình và ông rất thân thiết với mẹ.

Trong các tour diễn vòng quanh châu Âu, nơi mà ông phải biểu diễn trước mặt các vị vua, hoàng hậu và giới quý tộc của các nước khác, Leopold thường dắt theo Mozart. Khi trở lại Salzburg, Mozart bắt đầu làm việc cho tổng giám mục. Tuy nhiên, ông không thực sự hạnh phúc tại Salzburg. Ông không được trả công xứng đáng và tổng giám mục cũng không quan tâm nhiều đến âm nhạc.

Năm 1781, Mozart rời Salzburg để đến Vienna, một thị trấn nơi mà âm nhạc rất được xem trọng. Ở đây ông đã làm rất nhiều việc nhưng ông vẫn không thể trở nên giàu có. Một năm trước khi đến Vienna, Mozart kết hôn với Constanze Weber.

Mặc dù ông đã làm việc rất chăm chỉ, Wolfgang không thể kiếm đủ tiền để lo cho gia đình của mình. Sức khỏe của ông bắt đầu trở nên yếu đi và vào ngày 5 tháng 12 năm 1791, ông qua đời, có lẽ là do suy thận.

Âm nhạc của Mozart

Mozart là một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ nổi tiếng sau khi ông qua đời và ngày nay, mọi người ở mọi lứa tuổi đều thích phong cách âm nhạc nhịp nhàng của Mozart. Ông đã soạn hơn 40 bản giao hưởng. Một số bản là khúc dạo đầu của những vở nhạc kịch và kéo dài chỉ một vài phút, nhưng những bản khác là những tác phẩm âm nhạc thực sự với 4 phần và kéo dài trong nửa giờ. Bản giao hưởng cuối cùng và nổi tiếng nhất của ông là Nr. 41, có tên thường gọi là Jupiter.

Trong số 22 vở nhạc kịch của ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới. The Marriage of Figaro (1786) và Don Giovanni (1787) là 2 vở nhạc kịch mà Mozart sáng tác bằng tiếng Ý. The Magic Flute có lẽ là vở nhạc kịch được viết bằng tiếng Đức nổi tiếng nhất của ông.

Wolfgang cũng sáng tác nhạc dành cho nhà thờ, chủ yếu là các nhà thờ ở Salzburg. Nhạc cụ chính của các tác phẩm này là đàn ọc-gan. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông là Requiem (Mass for the Dead) đây là tác phẩm mà ông đã bắt đầu vào năm 1791 nhưng không thể hoàn thành trước khi qua đời.

Mozart cũng soạn những tác phẩm âm nhạc nhẹ nhàng và du dương được gọi là các bản dạ khúc, những tác phẩm này thường được biểu diễn tại các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một trong những bản dạ khúc nổi tiếng nhất của ông là “A Little Night Music”.

Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Mozart chỉ tập trung vào sáng tác những tác phẩm được chơi bởi một hoặc hai nhạc cụ. Ông thích viết những bản tứ tấu dành cho hai cây vĩ cầm, một cây đại hồ cầm và một cây vi-ô-lông-xen. Ông cũng soạn những bản sô-nát dành cho vi-ô-lông, pi-a-nô và kèn flute.

3
1
Nguyễn Minh Thạch
19/06/2020 15:46:45
+2đ tặng

Mozart không chỉ là một thần đồng trong lịch sử âm nhạc mà còn là một trong những nhạc sỹ hiếm hoi thành công ở tất cả các thể loại.

Wolfgang Amadeus Mozart sinh ngày 27/1/1756 tại Salzburg, thuộc nước Áo ngày nay. Cha ông là Leopold Mozart, một giáo viên và cũng là một nhà chơi đàn violon, đàn phong cầm nổi tiếng. Mẹ và chị gái của Mozart đều là những nhạc công giỏi. Khi mới 2 tuổi, nghe mẹ đánh đàn, Mozart đã có thể đánh lại ngay được bản nhạc ấy. Nhận thấy con trai mình là một tài năng thiên bẩm, ông Leopold quyết định dạy Mozart những gì liên quan đến với âm nhạc. Dường như tất cả mọi điều ông Leopold dạy, cậu bé Mozart đều đã biết từ trước. Mới 4 tuổi, cậu đã có thể thuộc lòng một bản khiêu vũ nhịp ba hay một khúc tam tấu chỉ trong nửa giờ đồng hồ. Chẳng bao lâu, cậu đã tự mình sáng tác nhạc cho đàn piano, rồi những bản sonate cho đàn dương cầm. Thậm chí, trong một buổi hòa nhạc, Mozart còn tự đàn chính xác từng nốt nhạc trong phần violon bè hai, violon bè 1 mà chưa từng học qua cách chơi đàn vĩ cầm. Tiếng vang về tài năng kỳ diệu của cậu bé Mozart nhanh chóng lan rộng ra ngoài phạm vi nhỏ bé của vùng Salzburg.

Tranh chân dung Mozart.


Năm 1762, khi Mozart mới 6 tuổi, ông Leopold quyết định đưa con trai Mozart và con gái Nannerl đi lưu diễn khắp châu Âu, từ Munich, Vienne, đến Amsterdam, Geneve, Paris, London. Hai chị em Mozart, nhất là cậu em đã làm cho mọi người “như phát điên”. Giới bình luận lúc bấy giờ nói: “Cậu bé này hiểu biết âm nhạc qua bản năng còn nhiều hơn so với những ông thầy dạy âm nhạc ở những nhà thờ lớn đã học hỏi suốt cả một đời”. Thậm chí, Hoàng đế Đức Francis I còn gọi Mozart là “thầy phù thủy bé nhỏ”. Năm 1766, gia đình Mozart kết thúc chuyến lưu diễn quay trở về Salzburg.

Năm 1769, ông Leopold lại quyết định đưa Mozart đi lưu diễn tại Italy - quê hương của âm nhạc vào thời kỳ bấy giờ. Tại Italy, Mozart đã khiến các khán giả kinh ngạc về khả năng chỉ huy đàn violon, hát ứng tác cũng như trí nhớ kỳ lạ của cậu. Với tài năng thiên bẩm đó, Mozart được phong làm Viện sỹ Viện Hàn lâm nghệ thuật Bôlông, một sự kiện chưa từng có đối với một nhạc sỹ nhỏ tuổi như Mozart lúc bấy giờ.

Những chuyến lưu diễn trong nhiều năm đã giúp Mozart có cơ hội thưởng thức âm nhạc thịnh hành tại các thành phố, gặp gỡ các nhạc sĩ lớn thời kỳ bấy giờ, đồng thời tiếp thu được nhiều phong cách âm nhạc. Vì vậy, trong âm nhạc của Mozart, người ta thường thấy sự kết tinh nét nhạc của nhiều quốc gia, khác hẳn với Haydn mang màu sắc âm nhạc đặc biệt của nước Áo, hay Handel với nét nhạc thuần Đức.

Âm nhạc của Mozart có một vẻ đẹp hoàn hảo, mẫu mực. Các nốt nhạc của ông bao giờ cũng tạo cho người nghe một cảm giác hài hòa, cân đối. Chính vì vậy mà mọi người thường hay nói trẻ nhỏ nếu được nghe âm nhạc của Mozart sẽ có một sự kích thích rất tốt để phát triển về trí tuệ và tâm hồn.

Trong cuộc đời 35 năm ngắn ngủi của mình, Mozart đã viết một số lượng tác phẩm khổng lồ, 626 tác phẩm bao gồm: 41 giao hưởng, 23 nhạc kịch, 25 bản concerto cho piano, 7 concerto cho violon, 17 sonata cho piano, 42 sonata violon, 15 mexa, hàng trăm bản nhạc thính phòng và ca khúc, trong đó có các tác phẩm nổi tiếng như: sonata Piano A dur, concertos Piano d moll, bản giao hưởng số 39, 40, 41. Ngoài ra còn có nhiều ca khúc, nhiều bản song, tam, tứ, tấu, một số thanh xướng kịch trong đó nổi tiếng là tác phẩm "Cầu hồn".

Thần đồng âm nhạc Mozart.


Từ những tác phẩm nhỏ nhất (những khúc thanh nhạc) tới những thể loại có hình thức cấu trúc lớn (concerto, giao hưởng, nhạc kịch); ở mỗi thể loại, Mozart đã đưa âm nhạc cổ điển lên đến mẫu mực và sau này trở thành những nguyên tắc kinh điển trong âm nhạc cổ điển mà các nhạc sỹ thời kỳ sau luôn kế thừa và trân trọng.

Trong các sáng tác của Mozart, nhạc kịch chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Sáng tác nhạc kịch từ năm lên 11 tuổi, nhưng phải đến 10 năm cuối đời sống tại Vienne, những vở nhạc kịch của ông mới đạt đến thành tựu cao nhất.

Trong các tác phẩm nhạc kịch của mình, Mozart đã khéo léo kết hợp nền nhạc kịch dân tộc Đức với những yếu tố nhạc kịch Italy, đồng thời thể hiện nhiều quan niệm mới mẻ. Ông luôn tâm niệm: “Phải đạt đến chỗ âm nhạc và nội dung của vở kịch hợp thành một thể thống nhất không thể chia cắt, làm cho một vở ca kịch khi diễn xuất thì tất cả những nhân tố đều phải nương tựa vào nhau”. Và có thể nhận thấy, các tác phẩm của Mozart luôn là sự kết hợp đầy ngẫu hứng và thống nhất giữa âm nhạc của kịch với chủ nghĩa nhân đạo và những cảm thụ phong phú có từ cuộc sống.

Mặc dù là một nhạc sỹ thiên tài nhưng Mozart luôn phải sáng tác không ngừng nghỉ để kiếm sống. Chính vì vậy, sức khỏe của Mozart ngày càng kém. Mozart qua đời ngày 5/12/1791 khi mới 35 tuổi.

Nhận xét về Mozart, Shostakovich đã từng nói: "Mozart - đó là tuổi thanh xuân của âm nhạc, là nguồn sống khi xuân về và là sự hài hòa của tâm hồn". Còn từ điển Larousse của Pháp thì viết: "Mozart luôn tìm kiếm sự thanh khiết, nét tao nhã và biết đạt tới vẻ đẹp cao cả xuyên qua sự đơn sơ và nét duyên dáng"... Từ khi âm nhạc của Mozart lấp lánh và rơi vào kho tàng âm nhạc nhân loại, những nhận xét này chưa bao giờ thay đổi.
0
1
May mắn ???
19/06/2020 15:49:48
+1đ tặng

Wolfgang Amadeus Mozart là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất trong lịch sử âm nhạc. Mặc dù ông đã mất trước ngày sinh nhật lần thứ 36 của mình nhưng Mozart đã để lại hơn 600 tác phẩm.



Chân dung của Wolfgang Amadeus Mozart - Ảnh: en.wikipedia.org

Mozart sinh ngày 27 tháng 1 năm 1756 tại Salzburg. Cha của ông, Leopold là một nhà soạn nhạc, một giáo viên dạy vi-ô-lông và chỉ huy của một dàn nhạc giao hưởng địa phương.

Wolfgang biết chơi đàn Cla-vơ-xanh khi mới lên 3. Khi vừa tròn 5 tuổi, ông đã có thể soạn một bài độc tấu pi-a-nô. Ông soạn bản giao hưởng đầu tiên khi lên 9 và một vở nhạc kịch ở tuổi 12. Wolfgang chưa bao giờ đến trường. Cha ông đã dạy cho ông ngôn ngữ, địa lý, lịch sử, toán học và tất nhiên không thể thiếu âm nhạc.

Mozart sinh ra trong một gia đình đầy ấp yêu thương. Ông thích chơi hợp tấu với chị của mình và ông rất thân thiết với mẹ.

Trong các tour diễn vòng quanh châu Âu, nơi mà ông phải biểu diễn trước mặt các vị vua, hoàng hậu và giới quý tộc của các nước khác, Leopold thường dắt theo Mozart. Khi trở lại Salzburg, Mozart bắt đầu làm việc cho tổng giám mục. Tuy nhiên, ông không thực sự hạnh phúc tại Salzburg. Ông không được trả công xứng đáng và tổng giám mục cũng không quan tâm nhiều đến âm nhạc.

Năm 1781, Mozart rời Salzburg để đến Vienna, một thị trấn nơi mà âm nhạc rất được xem trọng. Ở đây ông đã làm rất nhiều việc nhưng ông vẫn không thể trở nên giàu có. Một năm trước khi đến Vienna, Mozart kết hôn với Constanze Weber.

Mặc dù ông đã làm việc rất chăm chỉ, Wolfgang không thể kiếm đủ tiền để lo cho gia đình của mình. Sức khỏe của ông bắt đầu trở nên yếu đi và vào ngày 5 tháng 12 năm 1791, ông qua đời, có lẽ là do suy thận.

Âm nhạc của Mozart

Mozart là một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ nổi tiếng sau khi ông qua đời và ngày nay, mọi người ở mọi lứa tuổi đều thích phong cách âm nhạc nhịp nhàng của Mozart. Ông đã soạn hơn 40 bản giao hưởng. Một số bản là khúc dạo đầu của những vở nhạc kịch và kéo dài chỉ một vài phút, nhưng những bản khác là những tác phẩm âm nhạc thực sự với 4 phần và kéo dài trong nửa giờ. Bản giao hưởng cuối cùng và nổi tiếng nhất của ông là Nr. 41, có tên thường gọi là Jupiter.

Trong số 22 vở nhạc kịch của ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới. The Marriage of Figaro (1786) và Don Giovanni (1787) là 2 vở nhạc kịch mà Mozart sáng tác bằng tiếng Ý. The Magic Flute có lẽ là vở nhạc kịch được viết bằng tiếng Đức nổi tiếng nhất của ông.

Wolfgang cũng sáng tác nhạc dành cho nhà thờ, chủ yếu là các nhà thờ ở Salzburg. Nhạc cụ chính của các tác phẩm này là đàn ọc-gan. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông là Requiem (Mass for the Dead) đây là tác phẩm mà ông đã bắt đầu vào năm 1791 nhưng không thể hoàn thành trước khi qua đời.

Mozart cũng soạn những tác phẩm âm nhạc nhẹ nhàng và du dương được gọi là các bản dạ khúc, những tác phẩm này thường được biểu diễn tại các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một trong những bản dạ khúc nổi tiếng nhất của ông là “A Little Night Music”.

Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Mozart chỉ tập trung vào sáng tác những tác phẩm được chơi bởi một hoặc hai nhạc cụ. Ông thích viết những bản tứ tấu dành cho hai cây vĩ cầm, một cây đại hồ cầm và một cây vi-ô-lông-xen. Ông cũng soạn những bản sô-nát dành cho vi-ô-lông, pi-a-nô và kèn flute.

1
1
Mai Lê
19/06/2020 15:50:01

Mozart là một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ nổi tiếng sau khi ông qua đời và ngày nay, mọi người ở mọi lứa tuổi đều thích phong cách âm nhạc nhịp nhàng của Mozart. Ông đã soạn hơn 40 bản giao hưởng. Một số bản là khúc dạo đầu của những vở nhạc kịch và kéo dài chỉ một vài phút, nhưng những bản khác là những tác phẩm âm nhạc thực sự với 4 phần và kéo dài trong nửa giờ. Bản giao hưởng cuối cùng và nổi tiếng nhất của ông là Nr. 41, có tên thường gọi là Jupiter.

Trong số 22 vở nhạc kịch của ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới. The Marriage of Figaro (1786) và Don Giovanni (1787) là 2 vở nhạc kịch mà Mozart sáng tác bằng tiếng Ý. The Magic Flute có lẽ là vở nhạc kịch được viết bằng tiếng Đức nổi tiếng nhất của ông.

Wolfgang cũng sáng tác nhạc dành cho nhà thờ, chủ yếu là các nhà thờ ở Salzburg. Nhạc cụ chính của các tác phẩm này là đàn ọc-gan. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông là Requiem (Mass for the Dead) đây là tác phẩm mà ông đã bắt đầu vào năm 1791 nhưng không thể hoàn thành trước khi qua đời.

Mozart cũng soạn những tác phẩm âm nhạc nhẹ nhàng và du dương được gọi là các bản dạ khúc, những tác phẩm này thường được biểu diễn tại các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một trong những bản dạ khúc nổi tiếng nhất của ông là “A Little Night Music”.

Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Mozart chỉ tập trung vào sáng tác những tác phẩm được chơi bởi một hoặc hai nhạc cụ. Ông thích viết những bản tứ tấu dành cho hai cây vĩ cầm, một cây đại hồ cầm và một cây vi-ô-lông-xen. Ông cũng soạn những bản sô-nát dành cho vi-ô-lông, pi-a-nô và kèn flute.

Âm nhạc của Mozart

Mozart là một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ nổi tiếng sau khi ông qua đời và ngày nay, mọi người ở mọi lứa tuổi đều thích phong cách âm nhạc nhịp nhàng của Mozart. Ông đã soạn hơn 40 bản giao hưởng. Một số bản là khúc dạo đầu của những vở nhạc kịch và kéo dài chỉ một vài phút, nhưng những bản khác là những tác phẩm âm nhạc thực sự với 4 phần và kéo dài trong nửa giờ. Bản giao hưởng cuối cùng và nổi tiếng nhất của ông là Nr. 41, có tên thường gọi là Jupiter.

Trong số 22 vở nhạc kịch của ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới. The Marriage of Figaro (1786) và Don Giovanni (1787) là 2 vở nhạc kịch mà Mozart sáng tác bằng tiếng Ý. The Magic Flute có lẽ là vở nhạc kịch được viết bằng tiếng Đức nổi tiếng nhất của ông.

Wolfgang cũng sáng tác nhạc dành cho nhà thờ, chủ yếu là các nhà thờ ở Salzburg. Nhạc cụ chính của các tác phẩm này là đàn ọc-gan. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông là Requiem (Mass for the Dead) đây là tác phẩm mà ông đã bắt đầu vào năm 1791 nhưng không thể hoàn thành trước khi qua đời.

Mozart cũng soạn những tác phẩm âm nhạc nhẹ nhàng và du dương được gọi là các bản dạ khúc, những tác phẩm này thường được biểu diễn tại các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một trong những bản dạ khúc nổi tiếng nhất của ông là “A Little Night Music”.

Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Mozart chỉ tập trung vào sáng tác những tác phẩm được chơi bởi một hoặc hai nhạc cụ. Ông thích viết những bản tứ tấu dành cho hai cây vĩ cầm, một cây đại hồ cầm và một cây vi-ô-lông-xen. Ông cũng soạn những bản sô-nát dành cho vi-ô-lông, pi-a-nô và kèn flute

2
0
Coin
02/08/2020 19:59:52

Âm nhạc của Mozart

Mozart là một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ nổi tiếng sau khi ông qua đời và ngày nay, mọi người ở mọi lứa tuổi đều thích phong cách âm nhạc nhịp nhàng của Mozart. Ông đã soạn hơn 40 bản giao hưởng. Một số bản là khúc dạo đầu của những vở nhạc kịch và kéo dài chỉ một vài phút, nhưng những bản khác là những tác phẩm âm nhạc thực sự với 4 phần và kéo dài trong nửa giờ. Bản giao hưởng cuối cùng và nổi tiếng nhất của ông là Nr. 41, có tên thường gọi là Jupiter.

Trong số 22 vở nhạc kịch của ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới. The Marriage of Figaro (1786) và Don Giovanni (1787) là 2 vở nhạc kịch mà Mozart sáng tác bằng tiếng Ý. The Magic Flute có lẽ là vở nhạc kịch được viết bằng tiếng Đức nổi tiếng nhất của ông.

Wolfgang cũng sáng tác nhạc dành cho nhà thờ, chủ yếu là các nhà thờ ở Salzburg. Nhạc cụ chính của các tác phẩm này là đàn ọc-gan. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông là Requiem (Mass for the Dead) đây là tác phẩm mà ông đã bắt đầu vào năm 1791 nhưng không thể hoàn thành trước khi qua đời.

Mozart cũng soạn những tác phẩm âm nhạc nhẹ nhàng và du dương được gọi là các bản dạ khúc, những tác phẩm này thường được biểu diễn tại các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một trong những bản dạ khúc nổi tiếng nhất của ông là “A Little Night Music”.

Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Mozart chỉ tập trung vào sáng tác những tác phẩm được chơi bởi một hoặc hai nhạc cụ. Ông thích viết những bản tứ tấu dành cho hai cây vĩ cầm, một cây đại hồ cầm và một cây vi-ô-lông-xen. Ông cũng soạn những bản sô-nát dành cho vi-ô-lông, pi-a-nô và kèn flute.

Âm nhạc của Mozart

Mozart là một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ nổi tiếng sau khi ông qua đời và ngày nay, mọi người ở mọi lứa tuổi đều thích phong cách âm nhạc nhịp nhàng của Mozart. Ông đã soạn hơn 40 bản giao hưởng. Một số bản là khúc dạo đầu của những vở nhạc kịch và kéo dài chỉ một vài phút, nhưng những bản khác là những tác phẩm âm nhạc thực sự với 4 phần và kéo dài trong nửa giờ. Bản giao hưởng cuối cùng và nổi tiếng nhất của ông là Nr. 41, có tên thường gọi là Jupiter.

Trong số 22 vở nhạc kịch của ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới. The Marriage of Figaro (1786) và Don Giovanni (1787) là 2 vở nhạc kịch mà Mozart sáng tác bằng tiếng Ý. The Magic Flute có lẽ là vở nhạc kịch được viết bằng tiếng Đức nổi tiếng nhất của ông.

Wolfgang cũng sáng tác nhạc dành cho nhà thờ, chủ yếu là các nhà thờ ở Salzburg. Nhạc cụ chính của các tác phẩm này là đàn ọc-gan. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông là Requiem (Mass for the Dead) đây là tác phẩm mà ông đã bắt đầu vào năm 1791 nhưng không thể hoàn thành trước khi qua đời.

Mozart cũng soạn những tác phẩm âm nhạc nhẹ nhàng và du dương được gọi là các bản dạ khúc, những tác phẩm này thường được biểu diễn tại các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một trong những bản dạ khúc nổi tiếng nhất của ông là “A Little Night Music”.

Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Mozart chỉ tập trung vào sáng tác những tác phẩm được chơi bởi một hoặc hai nhạc cụ. Ông thích viết những bản tứ tấu dành cho hai cây vĩ cầm, một cây đại hồ cầm và một cây vi-ô-lông-xen. Ông cũng soạn những bản sô-nát dành cho vi-ô-lông, pi-a-nô và kèn flute.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×