LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về bài thơ Nói với con

Cảm nhận của em về bài thơ nói với con

3 trả lời
Hỏi chi tiết
454
0
0
May mắn ???
21/06/2020 14:55:49
+5đ tặng

Có lẽ các bạn cũng đã biết xưa nay tình mẫu tử luôn là đề tài phong phú cho thơ ca. Những bài thơ nói về tình cảm cha con thì rất là ít. Riêng bài thơ " Nói với con" của tác giả Y Phương là một trong những tác phẩm rất hiếm hoi đó. Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm êm ấm của gia đình, tình yêu quê hương da diết, ngọt ngào và ngợi ca giá trị truyền thống tình nghĩa, sức sống mạnh mẽ của người dân miền núi.

Cội nguồn sinh dưỡng của con trước hết là cái nôi gia đình con lớn lên trong mái ấm có cha có mẹ trong vòng tay yêu thương. Cha mẹ thấy hạnh phúc sung sướng, từ bước chập chững từ tiếng nói tiếng cười đầu tiên của con. Cách nói mộc mạc, nghệ thuật liệt kê điệp ngữ, gợi ra không khí gia đình đầm ấm tràn ngập yêu thương.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng"

Hơn thế, cái nôi nhỏ bé ấy, còn được đùm bọc bởi cái nôi rộng lớn đó là quê hương. Con lớn lên trưởng thành trong cuộc sống lao động trong thiên nhiên thơ mộng nghĩa tình quê hương. Tác giả vận dụng cách nói của người miền núi để sáng tạo những hình ảnh cụ thể vừa mang tính khái quát cao. Người đồng mình, vùng núi, dân tộc mình yêu lắm con ơi. Đan lờ, ken vách cần cù lao động, cần cù lao động đùm bọc sẻ chia gắn bó với nhau.

" Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng"

Thiên nhiên đẹp đẽ thơ mộng trở qua nghệ thuật nhân hóa. Điều đó khẳng định một quê hương nghĩa tình. Người cha muốn nói với con vẻ đẹp ấy của người đồng mình mà để yêu, gắn bó. Do đó, khi sung sướng ôm con thơ vào lòng nhìn con khôn lớn, suy nghĩ về nghĩa tình làng bận quê nhà người cha nghĩ về kỉ niệm hạnh phúc.

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước ở bên con. Vẫn cách diễn đạt mộc mạc độc đáo. Nhà thơ tiếp tục thể hiện, nét đẹp của người đồng mình qua những hình ảnh đặc sắc.

" Người đồng mình…

…….

không lo cực nhọc"

Điệp ngữ " người đồng mình" lặp lại ba lần, đó là cảm xúc trào dâng trong tâm trạng nhà thơ. Biết bao nỗi niềm thiêng liêng da diết với quê hương với con người nơi đây mà thổn thức thành lời gọi " Yêu lắm, thương lắm, con ơi". Đứng trước hoàn cảnh quê hương đất nước lúc bấy giờ điểm tựa tinh thần và củng cố niềm tin duy nhất là cách tin vào sức mạnh truyền thống dân tộc lòng thủy chung với quê hương. Dù hôm nay quê hương, người đồng mình còn nghèo gian nan vất vả." Sống trên đá, trong thung lên thác, xuống ghềnh" thì cũng đừng " chê đá ghập ghềnh, chê thung nghèo đói". Lạc quan " như sông, như suối". Trong ý thơ có nét đặc sắc, nhà thơ lấy cái cao xa của trời đất để đo tầm kích của nỗi buồn và ý trí người đồng mình, tác giả muốn nhắn nhủ khuyên dăn truyền cho con cách nhìn và nghị lực, nỗi buồn dẫu cao to như núi thì ý chí tâm hồn con người, sẽ càng xa càng dài như sông suối, lớn lao như biển rộng. Phải biết chân trọng yêu thương nơi mình sinh ra và lớn lên. Dù gian nan đến đến đâu cũng đừng chê đừng bỏ, đừng làm việc trái lòng mình. Phải biết cần cù lạc quan để vượt qua để sống cho xứng đáng.

Người đồng mình tuy mộc mạc thô sơ nhưng giàu bản lĩnh và lòng tự trọng

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì là phong tục”

Ý thơ cụ thể mà hàm ý sâu xa, nhà thơ nhắc lại hai lần người đồng mình thô sơ da thịt, mộc mạc. Về lời ăn tiếng nói nhưng chẳng mấy ai nhỏ bé về ý chí nghị lực lòng tự trọng mà ngược lại rất mạnh mẽ, khoáng đạt giàu niềm tin và tinh thần lạc quan, bền bỉ gắn bó với quê hương. Câu thơ độc đáo mang cách nói đặc trưng sâu sắc của người miền núi.

“ Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương"

Đục đá kê cao là hành động thục người miền núi thường đục quá kê cao nhà kê nối đi, từ hình ảnh đó lời thơ chuyển nghĩa khái quát " kê cao quê hương" đó là ý thức bảo vệ và tinh thần xây dựng quê hương ngày càng tiến bộ giàu đẹp hơn là tôn vinh giữ gìn truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương.

Những câu cuối, nhà thơ khẳng định muốn truyền cho con sức mạnh vào truyền thống quê hương, người đồng mình tuy thế nhưng sống cao đẹp, mong con sau này lớn khôn trưởng thành trên cuộc đời phải sống cao thượng để xứng đáng truyền thống tốt đẹp đó. Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, số câu số chữ không khuôn chỉnh phù hợp mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt nhịp điệu bay bổng nhẹ nhàng.

Qua những lời tâm sự của cha đối với con. Ta thấy tình cảm cha con thật thân thích, trìu mến, người cha luôn muốn truyền dạy cho con những điều tốt đẹp nhất. Chính vì vậy, mỗi người con như chúng ta hãy chân trọng cố gắng giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của ông cha ta.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Đặng Đình Đức
21/06/2020 15:20:45
+4đ tặng

Ca dao từng có câu: "Công cha như núi Thái Sơn". Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm con.

Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình cảm quê hượng, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.

Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của con được cha mẹ mừng vui đón nhận:

"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"

Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáọ đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với con. Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ.

Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là cuộc sống của những "người đồng mình", rất cần cù và tươi vui:

"Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời".

Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: cài nan hoa, ken câu hát,... đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng là một trong những yếu tố nuôi con khôn lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác... đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: "Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng". Cách gọi "người đồng mình" đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm ruột thịt yêu thương.

Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình". Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:

"Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn".

Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như "cao", "xa", "lớn", tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt, mạnh mẽ của những "người đồng mình". Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:

"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì là phong tục"

Những "người đồng mình" vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những "người đồng mình" mộc mạc, thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin...Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào.

Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua những lời nhắn gửi của cha cho con. Người cha muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận những khó khăn, vất vả để có thể:

"Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc"

Người cha mong cho con mình sống ngay thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững vàng vượt qua mọi thử thách khó khăn. Người cha mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của mình, tin tưởng vào bản thân. Có như vậy, con mới có thể thành công, mới không thua kém ai cả Người cha đã nói với con bằng tất cả lòng yêu thương của mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều lớn nhất người cha đã truyền dạy cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê hương.

Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời.

Bài thơ đã gợi cho người đọc những niềm cảm động sâu xa và những suy nghĩ sâu sắc. Thì ra, đằng sau những lặng lẽ, thâm trầm của cha là biết bao yêu thương, biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết bao đợi chờ ... Con lớn lên như hôm nay không chỉ nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân tình của những lời dạy dỗ ân cần thấm thía. Quả là:

"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".

Vậy thì, là người làm con, con xin nguyện:

"Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".

Chẳng những vậy, con sẽ bước theo những bước chân vững chắc mà cha để lại trên con đường cha bước đến đỉnh Thái Sơn - nguyện "sống như sông như suối", nguyện ngẩng cao đầu "lên đường" mà không "thô sơ da thịt". Và trên con đường ấy, con sẽ mang theo hình ảnh quê hương để tiếp tục nối tiếp cha anh "tự đục đá kê cao quê hương" thân thiết của mình.

Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao.

Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Những bài học mà người cha trong bài thơ Nói với con có lẽ là những bài học mà bất kỳ người cha nào cũng muốn dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc mạc đó có lẽ sẽ theo con suốt trên chặng đường đời, bài học của cha - bài học đầy ý nghĩa sâu sắc.

0
0
Tuyết Hoa Lệ
21/06/2020 15:23:36
+3đ tặng

Nói với con của Y Phương - Một khúc nhạc Đàn Tính nhiều cung bậc

Trong số các nhà thơ dân tộc thiểu số, Y Phương là gương mặt khá tiêu biểu. Tác phẩm của ông khẳng định được vị thế riêng trong thơ ca hiện đại bởi một “chất giọng” đặc trưng của người Tày. Y Phương tự nhận mình là cây đàn Tính của dân tộc Tày: “Cây đàn này đâu phải cây đàn / Bầu nước mắt trăm năm cười khóc / Cây đàn này đâu phải cây đàn / Bọc sinh nở, lời chào ly biệt / Vụt đứng lên cây đàn dìu dặt / "Đi như thế cho đến ngày nhắm mắt" / Ngôn ngữ cổ còn vài câu tích tịch / Hãy gẩy lên bất cứ nơi nào” (Đàn Tính).
Cây đàn Tính có cái tên Y Phương ấy luôn cần mẫn gom nhặt và làm sống dậy những giá trị nhân văn trong truyền thống văn hóa của cộng đồng người Tày. Dù viết về làng, về tình yêu đôi lứa hay về tình phụ tử, Y Phương cũng luôn có ý thức tái hiện linh hồn của văn hóa quê hương. Từ thơ Y Phương, người đọc có thể nhận ra một vùng văn hóa độc đáo và có bề dày mà ít nhiều còn khá bí ẩn. Bài thơ Nói với con là một khúc nhạc đàn Tính như thế - một khúc nhạc đan xem nhiều cung bậc.

Mang hình thức là những lời tâm tình, mộc mạc của người cha dành cho con nhưng vấn đề mà tác phẩm đặt ra không chỉ là tình phụ tử. Sự độc đáo ở “chất giọng” khiến tác phẩm vừa đầy hấp lực nhưng cũng có không ít trở lực đối với người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu văn học. Khi được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 9 THCS, người ta càng nhận rõ điều này.

Xin được bắt đầu từ lối tư duy nghệ thuật trong bài thơ. Bài thơ có nhiều hình ảnh ngỡ phi lí, là kết quả của sự hòa hợp rất nhuyễn giữa tư duy nghệ thuật dân gian miền núi và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu thực hiện đại. Nếu tư duy nghệ thuật dân gian miền núi ưa dùng lối trùng điệp thì tư duy nghệ thuật của thơ Tượng trưng và Siêu thực lại thích tìm đến sự giao thoa giữa các cảm giác và sự coi trọng nhạc tính của ngôn ngữ thơ. Có thể nhận diện sự hòa hợp ấy ngay trong những câu thơ đầu:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.

Bốn câu thơ này là bức tranh về cảnh gia đình đầm ấm. Trong đó có ba nhân vật: người mẹ, người cha và đứa trẻ mà trung tâm là hình ảnh đứa trẻ đang tập đi. Sự hòa hợp giữa tư duy nghệ thuật dân gian miền núi và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu thực đã được hóa thân thành các thủ pháp nghệ thuật để tái hiện những cử chỉ của đứa trẻ: có thủ pháp trùng điệp, có nghệ thuật sử dụng đối ý (chân phải - chân trái, một bước - hai bước, cha - mẹ, tiếng nói - tiếng cười) và có nghệ thuật tạo nhạc tính bằng sự phối thanh, bốn câu thơ dùng đến 15/20 thanh trắc. Sự cộng hưởng của những thủ pháp nghệ thuật và nhất là sự phối thanh đã tạo nên những âm điệu gân guốc. Âm điệu ấy thích hợp với việc tái hiện hình ảnh đứa trẻ đang lẫm chẫm tập đi, cứ “chân phải” rồi “chân trái” một cách chập chững khó khăn. Khó khăn nhưng đầy phấn khích vì sự khích lệ nhiệt thành của cha mẹ. Cách dùng số đếm: “một bước”, “hai bước” cho thấy ánh nhìn của cha mẹ thật chăm chú, quan sát từng cử chỉ, trông chờ, đếm từng bước đi của con. Những bước chân lẫm chẫm được bao bọc bởi tình yêu thương của cha mẹ, tạo ra sự đáng yêu của đứa trẻ. Cứ như mỗi bước đều là một “thành tựu”, một dấu mốc cần được đếm để ghi nhớ. Nhưng điều lí thú hơn không phải là cách dùng số đếm mà là lối liên tưởng có vẻ phi lí, ngộ nghĩnh kiểu tư duy thơ Tượng trưng: “Một bước chạm tiếng nói / Hai bước tới tiếng cười”. Tiếng nói, tiếng cười vốn vô hình nhưng lại được hữu hình hóa để trở thành “cọc tiêu” định vị cho đứa trẻ “bước tới”. Thực ra, đó là hình thức “lạ hóa” ngôn từ để diễn tả không khí hạnh phúc trong ngôi nhà. Cơ hồ như khi đứa trẻ “cán đích” cũng là lúc cả ngôi nhà như rung lên, cả không gian xung quanh tan thành tiếng nói cười.

Đến những câu thơ tiếp theo, bài thơ bắt đầu chuyển mạch, chuyển giọng. Sau tiếng nói, tiếng cười ran lên từ “thành quả” tập đi, từ những bước đi đầu tiên của bé, chất thơ bắt đầu đọng vào sự sâu lắng suy tư khi nhân vật trữ tình - người cha “nói với con” về những điều ấp ủ. Từ đây, mạch thơ cứ đan cài giữa lòng yêu thương con và niềm tự hào về quê hương xứ sở.

Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời.

Tứ của những câu thơ này tập trung xoay quanh ba hình ảnh. Thứ nhất là hình ảnh con người quê hương (được gọi bằng cái tên mộc mạc mà thân thương - người đồng mình). Hình ảnh này được miêu tả qua đôi bàn tay đan lờ bắt cá và ken vách làm nhà. Đó là bàn tay tài hoa. Hai động từ “đan” và “ken” vốn chẳng có gì sáng tạo, vậy mà ở đây chúng lại có một sức ám gợi đặc biệt. Hai động từ này đều có nét nghĩa tạo sự bện kết nhưng khi được liên tưởng tới “cài nan hoa” và “ken câu hát” thì chúng lập tức diễn tả một sự bện xoắn giữa giá trị lao động và giá trị nghệ thuật, bàn tay lao động cũng đồng thời là bàn tay tạo tác, mỗi thứ đồ vật cũng là một tạo tác văn hóa. Nhất là lối liên tưởng “vách nhà ken câu hát”. Cũng như tiếng nói, tiếng cười ở bốn câu đầu, câu hát vốn phi vật thể lại được hình hài hóa thành vách nhà. Y Phương giải thích rằng: “Một điều nữa “vách nhà ken câu hát” là yếu tố văn hóa phi vật thể. Người con trai ngồi ngoài vách. Người con gái ở bên trong vách. Họ hát cho nhau nghe. Hát tràn đêm đến sáng bạch. Bởi thế, bức vách ở đây không chỉ là một bức vách cụ thể bằng đất, bằng đá nữa. Nó đã trở thành một chủ thể văn hóa”(1). Vậy là chỉ cần miêu tả đôi bàn tay với những chi tiết ngỡ phi lí, Y Phương đã tái hiện một nét tính cách đặc trưng của người Tày, ấy là lòng yêu ca hát, là sự tài hoa, lãng mạn. Và hơn thế, “vách nhà ken câu hát” đã làm bừng dậy một không gian văn hóa riêng miền cao. Thứ hai là hình ảnh mảnh đất quê hương (được chấm phá bởi hai biểu tượng: “rừng” và “con đường”): “rừng cho hoa / con đường cho những tấm lòng”. Có thể diễn ý thơ thế này chăng: “Rừng cho hoa” là biểu tượng của thiên nhiên thơ mộng, cũng là biểu tượng của sự sinh sôi, biểu tượng của sức sống (hiểu theo nghĩa đơm hoa - kết trái). Con đường cũng là biểu tượng quen thuộc trong thơ ca để chỉ sự xóa nhòa các lằn ranh. “Con đường cho những tấm lòng” bởi nhờ nó mà con người có thể đến được với nhau. Vì thế, con đường là sợi dây nối liền tình cảm, cũng là sợi tơ duyên để nối kết những tâm hồn, trong đó có cha và mẹ. Bằng điệp từ “cho”, cũng là động từ chỉ sự trao tặng, dâng hiến, tác giả đã dành những lời ngợi ca ngắn gọn mà giàu cảm xúc về hình ảnh một mảnh đất quê hương hào phóng - mảnh đất đã ban tặng cho con người những gì tinh túy nhất: “cho hoa” và “cho những tấm lòng”. Thứ ba là hình ảnh “ngày cưới” của cha mẹ, là “ngày đầu tiên”, là ngày “đẹp nhất”, đáng nhớ nhất trong đời. Ba hình ảnh này: con người - mảnh đất quê hương - ngày cưới của cha mẹ ngỡ chẳng liên kết gì và mạch thơ ngỡ như tản mạn nhưng xét kĩ lại khá tập trung. Chúng đều là những hình ảnh thơ nằm ở độ “thăng hoa”. Con người thì tài hoa, thiên nhiên thơ mộng hào phóng và nỗi nhớ thì gắn với ngày “đẹp nhất trong đời”. Cả ba hình ảnh đều đồng lòng gợi thức dậy ở đứa trẻ tình yêu thương, lòng gắn bó với cội nguồn sinh dưỡng. Rằng, con được sinh ra và được nâng niu trong một thế giới đầy sắc màu cổ tích. Đó là thế giới của những con người tài hoa, những tâm hồn lãng mạn, là thế giới của những con đường xuyên những cánh rừng đầy hoa và gần gũi hơn nữa, con được sinh ra từ tình yêu tha thiết giữa cha và mẹ (bằng chứng là nỗi nhớ “ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”). Một thế giới như thế sẽ đủ sức bao bọc con trong những êm đềm, những yêu thương; đủ sức nuôi lớn tâm hồn con và xứng đáng để con không phụ lòng.

Trong ba hình ảnh kể trên, tôi muốn bàn nhiều về vẻ đẹp của con người quê hương. Điều đó không hẳn do những liên tưởng thơ độc đáo mà là vị trí của hình ảnh này trong toàn tác phẩm. Điệp ngữ “người đồng mình” lặp lại bốn lần, tuy mỗi lần diễn tả một nét phẩm chất riêng song tổng gộp lại, “người đồng mình” là hiện thân đầy đủ nhất của truyền thống quê hương. Không chỉ tài hoa lãng mạn, “người đồng mình” còn là nơi hội tụ của ý chí, nghị lực, sự trong sáng nghĩa tình: “Người đồng mình thương lắm con ơi / Cao đo nỗi buồn / Xa nuôi chí lớn”; “người đồng mình” có thể “sống trên đá không chê đá gập ghềnh / Sống trong thung không chê thung nghèo khó” nghĩa là sống thủy chung, ơn nghĩa sâu nặng với quê hương, nghĩa là có khả năng thích nghi kỳ lạ trong bất cứ hoàn cảnh nào, như cây rừng có thể sinh sôi trên đá, xanh tốt trong thung, “người đồng mình” có thể bình thản đối mặt với gian khổ mà “không lo cực nhọc”, có thể vượt lên những cực nhọc bằng tính cách nhẫn nại phi thường:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.

Trong hai câu này, câu trên có ba thanh trắc liền nhau “tự - đục - đá”. Sự liên hoàn của ba thanh trắc tạo nên âm điệu trúc trắc, nặng nhọc. Âm điệu ấy có tác dụng đắc địa trong việc tái hiện sự cặm cụi, nỗi nhọc nhằn của “người đồng mình” trong việc kiến tạo quê hương trên đá. Tiếp sau đó, bốn thanh bằng liên tiếp lại tạo ra một âm điệu nhẹ nhàng “kê - cao - quê - hương”. Sự liên hoàn của thanh bằng lại mở ra hình ảnh một thế đứng, một tầm vóc cao vời vợi của quê hương giữa mênh mang đất trời. Từ âm điệu trúc trắc đến nhẹ nhàng cũng tựa như một khúc thức trong một bản nhạc, mô phỏng hành trình của quê hương từ sự khó nhọc nặng nề khi dựng nghiệp đến khi ung dung, khoan khoái trước thế đứng vượt lên trên những “gập ghềnh” của đá. Câu thơ dưới có 6 chữ mang thanh bằng và cuối câu lại là thanh trắc: “Còn - quê - hương - thì - làm - phong - tục”. Sự chuyển đổi âm điệu bằng trước - trắc sau ở câu này cũng là sự chuyển điệu từ êm nhẹ trước (bằng), nặng lắng (trắc) sau, là hướng chuyển điệu ngược lại với câu trên. Kết thúc bằng thanh trắc, câu thơ đã gợi được sự kết dệt, lắng đọng của những giá trị văn hóa bền vững. Nói rằng hai câu thơ này chứa đựng niềm tự hào về con người quê hương cũng được mà nói rằng đó là một triết lí được đúc rút từ bề dày truyền thống chắc cũng chẳng sai. “Sống trên đá không chê đã gập ghềnh” là thế, “tự đục đá kê cao quê hương” cũng là thế. Đó là sự hình tượng hóa quá trình không ngừng nghỉ của bao thế hệ “người đồng mình” nhằm tạo ra những giá trị sống. Đó là quá trình đầy cực nhọc và trong quá trình ấy, tâm hồn, trí tuệ của những con người “sống trên đá” đã lắng đọng lại thành những tập quán, phong tục hay nói rộng hơn là thành một bản sắc văn hóa riêng. Không biết có phải dụng ý của Y Phương hay không nhưng hai câu thơ này cứ như một khái quát về hành trình dựng nghiệp của tổ tiên từ thuở “khai thiên lập địa” đến giờ. Người đồng mình “tự đục đá” chứ không hề thụ động, chẳng dựa vào lực lượng siêu nhiên nào để kiến tạo quê hương.

Ở một phương diện nào đó, có thể coi, bài thơ Nói với con cũng là một trong những bằng chứng đánh dấu sự chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình. Trong những năm chiến tranh, truyền thống văn hóa cũng là đề tài hấp dẫn nhiều nhà thơ. Tuy nhiên, do yêu cầu của thời đại, người nghệ sĩ nếu có viết về truyền thống cũng không ngoài mục đích nhen lên ở người đọc niềm tự hào dân tộc. Đánh thức niềm tự hào dân tộc cũng là cách khơi lên sức mạnh tinh thần mà đánh giặc. Chẳng hạn, Nguyễn Khoa Điềm, song hành với việc tái hiện dáng vóc đất nước bằng những giá trị văn hóa đã nhắn nhủ thế hệ trẻ vùng tạm chiếm ở miền Nam: “Khi chúng ta cầm tay mọi người / Đất nước vẹn tròn to lớn” (Mặt đường khát vọng). Trong lời nhắn ấy có hàm ngôn chua chát: “chúng ta” (thế hệ trẻ ở các đô thị miền Nam) chưa hòa chung vào không khí đấu tranh của cả dân tộc, chưa “cầm tay mọi người” nên đất nước vẫn còn bị chia cắt, chưa được “vẹn tròn to lớn”. Bài thơ Nói với con được viết khi giặc tan rồi. Chiến tranh được đẩy lùi nhưng nguy cơ mai một truyền thống lại nhỡn tiền. Như thế nếu điều Nguyễn Khoa Điềm quan tâm là chủ quyền, là đất nước thống nhất thì điều mà Y Phương quan tâm lại là bản sắc văn hóa. “Bài thơ Nói với con tôi viết năm 1980 - Y Phương nói - Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh giành sự sống” và vì thế “cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc (…) Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa”(2). Từ những lời tâm sự này mà suy ra thì khi viết bài thơ Nói với con, Y Phương muốn giãi tỏ nỗi lo âu về sự mai một những giá trị văn hóa truyền thống trước tâm lí “hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc” của xã hội. Dấu hiệu ít ỏi nhưng dễ thấy nhất của nỗi lo âu ấy là câu thơ “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn”. Câu thơ này chia rõ làm hai trạng thái tâm tư: vừa là những dự cảm lại vừa đầy những khát khao. Ở nửa thứ nhất của câu thơ, ba từ “dẫu - làm - sao” là những dự cảm về sự đổi thay của thời cuộc. Đó không chỉ là tâm sự của Y Phương mà còn là nỗi niềm của cả một thế hệ nhà thơ ở thời kỳ đầu thống nhất đất nước. Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Nguyễn Duy từng mượn hình ảnh lời ru để thể hiện hoài nghi về số phận của những giá trị truyền thống: “Bà ru mẹ, mẹ ru con / Liệu mai sau các con còn nhớ chăng?”. Như thế, điều mà Y Phương đặt ra cũng là vấn đề mang tầm thời đại. Đó cũng là vấn đề không thể xem thưởng bởi một lẽ đơn giản, một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa cũng đồng nghĩa với việc gương mặt tinh thần của dân tộc ấy bị xóa nhòa. Y Phương chắc cũng chưa hình dung hết số phận của những giá trị văn hóa truyền thống sẽ ra sao nhưng ba từ “dẫu - làm - sao” đã chứa chất đầy những đau đáu lo âu. Không lo sao được khi một người nặng lòng với cội nguồn mà phải chứng kiến nguồn cội của mình có vẻ như lung lay. Một trong những bằng chứng về sự nặng lòng ấy là những câu thơ trong bài Tên làng của ông: “Ơi cái làng của mẹ sinh con / Có ngôi nhà xây bằng đá hộc / Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt / Có niềm vui lúa chín tràn trề / Có tình yêu tan thành tiếng thác / Vang lên trời / Vọng xuống đất / Cái tên làng Hiếu Lễ của con”. Sau ngót 20 năm kể từ khi viết bài thơ, Y Phương lại than phiền “Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con em các dân tộc không mấy mặn mà với văn hóa truyền thống. Và họ đang tự nguyện nhập ngoại, lai căng một cách dễ dãi. Tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không thể hòa tan”(3). Ở nửa thứ hai của câu thơ, ba chữ “cha - vẫn - muốn” lại là một khát khao da diết. Từ “vẫn” nếu đứng độc lập sẽ chẳng có gì đặc biệt nhưng trong câu thơ này, nó được xem như một “nhãn tự” thể hiện ý thức bám víu quyết liệt. “Nhãn tự” này đã tạo cho câu thơ có một sắc thái bản lĩnh. Đó là biểu hiện của tâm thế ứng xử “dĩ bất biến ứng vạn biến” mà người cha muốn truyền cho con. Cái “vạn biến” là thời cuộc, là hoàn cảnh sống. Hoàn cảnh sống có thể luôn biến đổi, mọi chuẩn mực hôm qua có thể không thích hợp với hôm nay,… thì người cha cũng chỉ mong muốn con mình giữ tâm thế “bất biến” trong ứng xử - cái tâm thế mà “dẫu làm sao” thì con cũng đừng quên cội nguồn sinh dưỡng: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh / Sống trong thung không chê thung nghèo khó”, “dẫu làm sao” chăng nữa, dẫu cuộc đời có dâu bể “vạn biến” đến mức như khi “lên thác”, lúc “xuống ghềnh” thì con cứ “sống như sông như suối”. Đó là cách so sánh khá sâu sắc. Sông suối là biến thể của biểu tượng nước, đối lập với hình ảnh đá trong bài thơ, nếu đá thuộc về “tính cương” thì nước thuộc về “tính nhu”, là biểu tượng của sự hồn nhiên, trong sáng, đồng thời cũng là biểu tượng của sức mạnh trí tuệ. Nước mềm mại nhưng “nước chảy đá mòn”, nước mềm mại nhưng có thể mạnh như thác lũ. Người cha muốn con phải kế thừa được tính cách truyền thống của “người đồng mình - “sống như sông như suối” là sống trong sáng, kiên nghị, mạnh mẽ “không lo cực nhọc”. Hồn nhiên đấy, tuy “thô sơ da thịt” đấy, chẳng diêm dúa cũng chẳng yêng hùng, khiêm nhường là vậy nhưng con người quê hương mình “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Vậy thì, để sống xứng đáng với truyền thống ấy, khi bước vào đời “không bao giờ nhỏ bé được / nghe con”. Đó là những câu kết ngắn gọn và chắc nịch, cũng là lời giáo huấn nghiêm khắc, là niềm hi vọng tha thiết mà người cha kỳ vọng ở con.

Tiếp cận tác phẩm này, cũng không nên cứng nhắc bám vào câu nói của Y Phương: lời thơ “tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình”(4). Y Phương làm thơ không phải để để tặng tri kỉ như thời trung đại (ở thời trung đại, chỉ số ít người được ăn học mới biết chữ nên người trí thức sáng tác thơ ca không phải hướng đến công chúng mà chủ yếu để dành cho việc đối đáp, thù tạc trong các buổi yến tiệc hoặc dành tặng tri âm,…). Cũng như phần lớn thơ hiện đại, bài thơ Nói với con được sáng tác để đăng báo, để in thành sách. Vì thế, ngoài việc “nói với con” và “tâm sự với mình”, người nghệ sĩ còn phải hướng đến đông đảo công chúng và muốn truyền đến công chúng một thông điệp từng ấp ủ. Hiểu như vậy thì hình ảnh đứa trẻ trong bài thơ cũng vượt khỏi giới hạn là cô con gái đầu lòng của nhà thơ để trở thành biểu tượng của tương lai. Chắc chắn là vậy, con chính là biểu tượng của tương lai. “Nói với con” do đó còn là lời tâm sự, là di nguyện để gửi đến các thế hệ tương lai. Thì ra, việc kể cho con nghe về hành trình của cha ông phải dựng nghiệp trên đá, phải “tự đục đá kê cao quê hương” không phải để “ôn nghèo kể khổ” mà - như đã nói trên, để mong muốn con biết quý trọng thành quả do cha ông đã để lại. Từ đó, đặng nhen lên ở con, ở các thế hệ mai sau ý thức bảo tồn, bảo lưu những giá trị văn hóa mà cha ông đã dày công vun trồng.

Cuối cùng cũng cần nói về kết cấu của tác phẩm. Trong bài thơ, Y Phương dùng khá nhiều hình tượng lạ nhưng tiêu biểu nhất là cặp hình tượng đôi chân và con đường. Cặp hình tượng này khi lộ diện, lúc ẩn mình mà chủ yếu là ẩn mình nhưng có tác dụng quyết định trong việc tổ chức kết cấu của tác phẩm. Bắt đầu là đôi chân đến với mẹ cha, là đôi chân “chạm tiếng nói”, “tới tiếng cười”, rồi đôi chân dẫn đứa trẻ từ gia đình, theo “con đường cho những tấm lòng” đến với cộng đồng để hít thở, tắm mình trong bầu khí quyển văn hóa của quê hương. Cuối cùng là đôi chân: “lên đường / không bao giờ nhỏ bé được”. Từ lâu, các nhà lí luận phê bình đã phát hiện thấy kết cấu trong tác phẩm nghệ thuật cũng là một phương diện tạo nghĩa. Nhìn từ “sơ đồ” hành trình của đôi chân đứa trẻ mà người cha “phác thảo”, có thể thấy, đích đến đầu tiên là cha mẹ, đích đến thứ hai là môi trường văn hóa quê hương và cái đích cuối cùng là vào đời. Tôi ngờ rằng, kết cấu này không thể nằm ngoài ý nghĩa triết lí mà Y Phương muốn kí thác. Nghĩa là, theo Y Phương, mỗi con người muốn trưởng thành thì cần phải xuất phát từ gia đình, phải biết đến cha mẹ; sau nữa phải thủy chung với quê hương. Gia đình và quê hương là môi trường bồi đắp những giá trị sống nhân văn. Có gắn bó với gia đình, với quê hương tức là biết sống theo đạo lí “uống nước nhớ nguồn” mới tiếp nhận được vốn văn hóa đủ để khi bước vào đời “không bao giờ nhỏ bé được / nghe con”. Có thể, có người không đồng ý với quan niệm này của Y Phương nhưng tính nhân văn trong đó là điều không thể phủ nhận.

Nói với con của Y Phương là bài thơ cũng “thô sơ da thịt” nhưng “không bao giờ nhỏ bé được” vì tác phẩm đã làm sống dậy những nét bản sắc văn hóa của một cộng đồng, đặt ra những vấn đề mang tầm thời đại - vấn đề bảo lưu và phát triển văn hóa. Đặt vào bối cảnh hội nhập ngày nay, khi những sản phẩm văn hóa nước ngoài (ngoài mặt tích cực) đã khiến phần nhiều giới trẻ Việt Nam ngày càng nhạt tình với vốn văn hóa truyền thống ta mới thấm thía điều mà Y Phương đã dự cảm.
- Nguồn: Yêu Thích Văn Học <3 (facebook)

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư