Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai đoạn thơ

Phân tích vẻ đẹp của người lính qua 2 đoạn thơ sau 
                 "Đêm nay rừng hoang sương muối 
                   Đứng cạnh bân nhau chờ giặc tới 
                   Đầu súng trăng treo"
                                                         (Đồng Chí- Chính Hữu)
                  "Không có kính rồi xe ko có đèn
                    Không có mui xe thùng xe có xước 
                    Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trc
                   Chỉ cần trong xe có một trái tim"
                                            (Bài thơ về tiểu đội xe ko kính- PTD)
 

4 trả lời
Hỏi chi tiết
649
1
1
Bình
30/06/2020 22:18:50
+5đ tặng

Viết về hình tượng những người lính trong chiến tranh, đã có rất nhiều tác giả chắp bút và đạt được nhiều thành công, tạo nên những tác phẩm thành công vang dội. Đây là một thách thức lớn đối với những tác muốn viết về đề tài này, nhưng đến lượt mình, tác giả Phạm Tiến Duật đã có bước đột phá lớn trong việc khai thác, xây dựng hình tượng của những người lính lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Bài thơ hấp dẫn trí tò mò của người đọc thông qua chính nhan đề có phần dài và hình ảnh hoàn toàn mới lạ, những chiếc xe không kính. Trong phần mở đầu của bài thơ, tác giả đã nêu ra những ấn tượng đầu tiên về những chiếc xe không kính cũng như nguyên nhân của tình trạng ấy. Thông qua hình tượng những chiếc xe, tác giả làm nổi bật lên được tư thế hiên ngang, sự ung dung, bình thản của những người lính giữa những hiểm nguy:

“Không có không phải xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Những chiếc xe này vốn có kính nhưng sự dữ dội của bom đạn chiến tranh khiến cho những tấm kính này vỡ ra, trở nên thiếu thốn, méo mó về hình dạng “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Cái tàn tạ của chiếc xe không nhằm gợi nhắc đến tình cảnh hiểm nguy mà nhằm tái hiện lại tư thế hiên ngang, bất khuất cùng tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính lái xe. Trước sự tàn phá của bom đạn, những người lính lái xe vẫn ung dung điều khiển chiếc xe thực hiện hành trình,cùng với sự kiên định đáng khâm phục “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

“Không có kính ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Không cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc,

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

 

Sự lạc quan, yêu đời của những người lính còn thể hiện trong cách họ đối mặt với những khó khăn và tinh thần vượt lên,làm chủ hoàn cảnh của họ.Xe không có kính, những cơn gió làm đôi mắt họ cay xè, bụi bẩn làm trắng xóa mái tóc của họ nhưng không làm lung lay tinh thần chiến đấu của họ.Ngược lại, những người lính còn nhìn những khó khăn ở khía cạnh hài hước, như một thú vui trong cuộc sống khố liệt. Họ nhìn những mái đầu trắng như mái tóc của người già, họ cùng nhau phá ra cười vì cách liên tưởng độc đáo ấy.

“Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe rồi thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Qua bài thơ, ta thấy được cả không khí dữ dội, khốc liệt của chiến tranh, nhưng mục đích của nhà thơ Phạm Tiến duật không phải khơi gợi tình cảnh hiểm nguy của chiến tranh mà lấy đó làm cơ sở để làm bật lên vẻ đẹp của những người lính lái xe. Đến đây ta có thể thấy những chiếc xe bị tàn phá không thể nặng nề hơn. Không chỉ thiếu kính mà còn thiếu đèn, không có mui, thùng xe bị xước. Nhưng những thiếu thốn ấy không thể ngăn cản được hành trình tiến tới miền Nam bởi tinh thần quyết thắng như ngọn lửa trong xe kia, và bởi trong xe còn có một trái tim.
(Tiểu đội xe ko kính nha)

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Bình
30/06/2020 22:21:00
+4đ tặng

Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình Đồng chí. Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ Đồng chí với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng.

Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?

Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:

Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. Anh và tôi, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tố quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:

Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Họ đến với cách mạng cũng vì lí tưởng muốn dâng hiến cho đời. Sổng là cho đâu chỉ nhận riêng mình. Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào... Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:

Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!...

Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ đưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong những gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc.... Nhưng... họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả những bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dầu rằng mặc kệ nhưng trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay động hồn thơ, hồn người:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa giếng nước gốc đa cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau... Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đầm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày

Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phái chăng sự khó khăn vất vả thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm... Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa... Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cá những người lính. Tình đồng chí:

Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết

(Nhớ - Hồng Nguyên)

Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tố quốc, một nụ cười ngạo nghễ yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng...

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đầy khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:

Đầu súng trăng treo
Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
Chiến tranh ở rừng Trăng thành tri kỉ

(Ánh trăng - Nguyễn Duy)

Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. Nụ cười chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau kề vai sát cánh cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.

Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.

Bài thơ Đồng chí với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.

1
1
Bình
30/06/2020 22:21:28
+3đ tặng
Mỗi bài bạn chọn những đoạn có câu thơ nha
1
1
Thời Phan Diễm Vi
01/07/2020 04:50:12
+2đ tặng

Viết về hình tượng những người lính trong chiến tranh, đã có rất nhiều tác giả chắp bút và đạt được nhiều thành công, tạo nên những tác phẩm thành công vang dội. Đây là một thách thức lớn đối với những tác muốn viết về đề tài này, nhưng đến lượt mình, tác giả Phạm Tiến Duật đã có bước đột phá lớn trong việc khai thác, xây dựng hình tượng của những người lính lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Bài thơ hấp dẫn trí tò mò của người đọc thông qua chính nhan đề có phần dài và hình ảnh hoàn toàn mới lạ, những chiếc xe không kính. Trong phần mở đầu của bài thơ, tác giả đã nêu ra những ấn tượng đầu tiên về những chiếc xe không kính cũng như nguyên nhân của tình trạng ấy. Thông qua hình tượng những chiếc xe, tác giả làm nổi bật lên được tư thế hiên ngang, sự ung dung, bình thản của những người lính giữa những hiểm nguy:

“Không có không phải xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Những chiếc xe này vốn có kính nhưng sự dữ dội của bom đạn chiến tranh khiến cho những tấm kính này vỡ ra, trở nên thiếu thốn, méo mó về hình dạng “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Cái tàn tạ của chiếc xe không nhằm gợi nhắc đến tình cảnh hiểm nguy mà nhằm tái hiện lại tư thế hiên ngang, bất khuất cùng tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính lái xe. Trước sự tàn phá của bom đạn, những người lính lái xe vẫn ung dung điều khiển chiếc xe thực hiện hành trình,cùng với sự kiên định đáng khâm phục “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

“Không có kính ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Không cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc,

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

 

Sự lạc quan, yêu đời của những người lính còn thể hiện trong cách họ đối mặt với những khó khăn và tinh thần vượt lên,làm chủ hoàn cảnh của họ.Xe không có kính, những cơn gió làm đôi mắt họ cay xè, bụi bẩn làm trắng xóa mái tóc của họ nhưng không làm lung lay tinh thần chiến đấu của họ.Ngược lại, những người lính còn nhìn những khó khăn ở khía cạnh hài hước, như một thú vui trong cuộc sống khố liệt. Họ nhìn những mái đầu trắng như mái tóc của người già, họ cùng nhau phá ra cười vì cách liên tưởng độc đáo ấy.

“Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe rồi thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Qua bài thơ, ta thấy được cả không khí dữ dội, khốc liệt của chiến tranh, nhưng mục đích của nhà thơ Phạm Tiến duật không phải khơi gợi tình cảnh hiểm nguy của chiến tranh mà lấy đó làm cơ sở để làm bật lên vẻ đẹp của những người lính lái xe. Đến đây ta có thể thấy những chiếc xe bị tàn phá không thể nặng nề hơn. Không chỉ thiếu kính mà còn thiếu đèn, không có mui, thùng xe bị xước. Nhưng những thiếu thốn ấy không thể ngăn cản được hành trình tiến tới miền Nam bởi tinh thần quyết thắng như ngọn lửa trong xe kia, và bởi trong xe còn có một trái tim.
(Tiểu đội xe ko kính nha)

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo