Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết bài văn cảm nhận của em về vẻ đẹp của Kiều trong đoạn trích

Viết bài văn cảm nhận của em về vẻ đẹp của Kiều trong 2 đoạn trích sau:

a. ''Làn thu thủy,nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm,liễu hờn kém xanh
      Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai''


b. '' Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
      Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai''

5 trả lời
Hỏi chi tiết
568
1
1
Phonggg
16/07/2020 03:11:11
+5đ tặng

Tham khảo 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Phonggg
16/07/2020 03:14:08
+4đ tặng

 

      Đôi mắt của nàng Kiều được miêu tả bằng hai hình ảnh ẩn dụ:

"Làn thu thủy, nét xuân sơn"

     Cặp mắt của nàng trong trẻo và long lanh như làn nước mùa thu, còn lông mày lại thanh nhẹ, đẹp như nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng, duyên dáng. Đây cũng là vẻ đẹp ước lệ, tượng trưng thường gặp trong thơ văn cổ. Những nghệ thuật nhân hóa, thậm xưng, so sánh, hoán dụ, ẩn dụ, điển cố, liệt kê, đối ngữ, tương hỗ được vận dụng tuyệt đối đã đưa sắc đẹp của Thúy Kiều đến tuyệt đỉnh, vẻ đẹp sắc nước hương trời, không còn từ ngữ hay sự so sánh nào có thể lột tả được nữa.

"Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"

     "Hoa" và "liễu" là những loài vô tri, vô giác, vậy mà phải "ghen", "hờn", tức giận trước vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà", "mười phân vẹn mười" của nàng Kiều. Vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành khiến mọi sự vật trên đời cũng đều ghen tị. 

      Nhưng qua nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy, đài các, kiêu sa, có sức cuốn hút mãnh liệt của Thúy Kiều, tuy nhan sắc đẹp mà không được lòng người như vậy, có thực sự đáng ngưỡng mộ hay không? Nguyễn Du đã hé mở cho chúng ta thấy những cơn sóng gió bão tố của cuộc đời như chờ trực để vùi dập thân phận của nàng.

     Nếu như ở Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều, nàng được Nguyễn Du vừa miêu tả nhan sắc, vừa ca ngợi tài năng:
                 ''Sắc đành đòi một, tài đành họa hai''
           Giải nghĩa câu thơ có thể thấy Nguyễn Du miêu tả rằng về nhan sắc Thúy Kiều là số một trên đời nhưng về tài thì Kiều cũng thuộc loại nếu bị xếp thứ hai thì sẽ không biết ai là người thứ nhất. 

1
1
Phonggg
16/07/2020 03:15:15
+3đ tặng

Để làm nổi bật hình tượng nàng Kiều, đầu tiên, Nguyễn Du tập trung miêu tả vẻ đẹp nhan sắc của nàng:

"Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"

Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng có hiệu quả trong việc khắc hoạ vẻ đẹp của Thuý Kiều. Khuôn mặt nàng là một khuôn mặt vô cùng thanh tú, được so sánh như làn nước mùa thu, như dáng núi mùa xuân. Nếu khi miêu tả nàng Vân, Nguyễn Du tập trung miêu tả từng chi tiết thì đến nàng Kiều, ông chỉ tập trung khắc họa đôi mắt xinh đẹp, biết nói của nàng. Đó là một đôi mắt xanh, biêng biếc như làn nước trong vắt của mùa thu cùng đôi lông mày thanh thoát như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt ấy tuyệt đẹp, chất chứa bên trong là một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống. Nghệ thuật lấy điểm tả diện, tác giả chỉ cần đặc tả đôi mắt thôi cũng đủ để làm bật lên vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha, trong sáng của cô tiểu thư đài các.

Chính vẻ đẹp vượt ra khỏi những nét đẹp chuẩn mực thông thường của người phụ nữ trong xã hội phong kiến của Kiều đã khiến cho "hoa ghen", "liễu hờn". Câu thơ như một lời dự báo của Nguyễn Du dành cho nàng. Có chăng, cuộc đời nàng Kiều sẽ gặp phải truân chuyên vì những kẻ mưu mô, hẹp hòi sẽ ghen, hờn với tài sắc "mười phân vẹn mười" của nàng? Nếu Thúy Vân có cuộc sống khiến vạn vật phải "thua", "nhường" thì Thúy Kiều lại trái ngược. Nó dự báo cho một cuộc đời đầy giông bão, trắc trở sắp ập đến với nàng.

Bằng đôi ba câu ngắn ngủi, Nguyễn Du đã dựng nên vẻ đẹp về ngoại hình của Kiều. Với nét vẽ của một người họa sĩ, ông đã vẽ lên bức họa chân dung nàng Kiều với vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt thế. Vẻ đẹp ấy hoàn mĩ như một bức tranh thuỷ mặc: Có núi, có trời, có sắc nước mùa thu.

Không chỉ trầm trồ bởi vẻ đẹp của nàng Kiều, người đọc lại càng ngưỡng mộ tài năng thiên bẩm của nàng:

"Sắc đành đòi một tài đành họa hai

1
1
Phonggg
16/07/2020 03:16:46
+2đ tặng

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm "Truyện Kiều"– kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam, ngoài giá trị nội dung sâu sắc "Thúy Kiều"còn rất thành công về nghệ thuật. Với nghệ thuật tả người qua bút pháp ước lệ tương đương, tả cảnh thiên nhiên qua bút pháp tả và hợi thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng rất xuất sắc. Tiêu biểu là đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" và điển hình là tám câu thơ trên đã khắc họa một cách xúc động về nỗi nhớ người yêu, nhớ bố mẹ của Thúy Kiều, qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của chính nhân vật.

    Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vì sợ mất vốn lẫn lời nên đã hứa đợi Kiều bình phục sẽ gả nàng vào nơi tử tế rồi mụ đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng. Thân gái một mình nơi đất khách quê người Kiều sống ở lầu Ngưng Bích với tâm trạng cô đơn buồn tủi. Trước mắt nàng chỉ là một không gian mênh mông với non xa trăng gần, với những cồn cát bụi bay mù mịt, còn thời gian thì tuần hoàn khép kín không gian và thời gian ấy như giam hãm con người, khiến nàng cảm thấy cô đơn buồn tủi đau đớn, tan nát cõi lòng

Đầu tiên, Kiều nhớ đến Kim Trọng.

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ"

    Chữ tưởng ở đây có nghĩa là hồi tưởng, nhớ lại. Nhớ về Kim Trọng là nhớ về người yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ về lời thề đôi lứa. "chén đồng"là chén rượu thề nguyền, đồng lòng, đồng dạ mà Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng vằng vặc:

"Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh linh hai miệng một lời song song"

    Vầng trăng kia vẫn còn, chén rượu thề nguyền chưa ráo mà nay tình duyên đã chia cắt đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.

    Nhớ về Kim Trọng đau đớn hình dung là cảnh ở Liêu Dương xa xôi cách trở, Kim Trọng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn hướng về Kiều chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng bao nhiêu thì Kiều càng thương cho số phận mình bấy nhiêu:

“Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"

    Thương thân mình bơ vơ trên trời, góc bể, càng nuối tiếc cho mối tình đầu. câu thơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai."có thể hiểu tấm son của Kiều đã bị hoen ố nàng không còn là một thiếu nữ phòng khuê, nhưng có thể hiểu "tấm son"là tấm lòng chung thủy son sắc của nàng dành cho Kim Trọng chẳng bao giờ nguôi ngoai. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn Kiều đã tạm để tấm lòng mình lắng xuống và nhớ đến Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một người.

    Chưa vơi nỗi nhớ người yêu, tâm can Kiều lại càng chồng chất nỗi nhớ thương cha mẹ, nên nhớ tới Kim Trọng nàng “tưởng"thì nhớ tới cha mẹ nàng "xót".

“Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm"

    Kiều xót xa khi bố mẹ đã già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con, nàng còn xót xa bởi mình không tự tay chăm sóc được cha mẹ và hiện thời ai là người chăm nom. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh " và điển cố "sân lai""gốc tử"đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều.

    Nhớ về cha mẹ còn tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, mà sự đổi thay khiến nàng lo lắng nhất là “Có khi gốc tử đã vừa người ôm"nghĩa là cha mẹ mỗi ngày thêm một già yếu nàng thì chẳng thể nào chăm sóc. Cụm từ "cách mấy nắng mưa" vừa nói được thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật, lần nào nhớ về cha mẹ Kiều cũng "nhớ ơn chín chữ cao sâu"và luôn ân hận day dứt vì đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi gắm vào chiều dài thời gian, chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm sâu xa. Đến đây ta hiểu tại sao trong nỗi nhớ thương Kiều lại nhớ Kim Trọng trước cha mẹ sau, phải chăng trong hai chữ tình - chữ hiếu nàng đã tạm yên với chữ hiếu bởi khi bán mình chuộc cha Kiều đã phần nào đền đáp được công ơn sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Còn với Kim Trọng trước khi về Liêu dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng vào Kiều bao nhiêu.

"Giữ vàng giữ ngọc cho hay

Cho đành lòng kẻ chân mây với trời"

    Vậy là giờ đây, tấm thân Kiều đã bị hoen ố, nàng đã phụ bạc chàng Kim vì thế nàng luôn ân hận, day dứt như một kẻ phụ tình. Nỗi đau ấy cứ xé tâm can nàng khiến nàng luôn nhớ đến Kim Trọng, nhớ người yêu trước nhớ cha mẹ sau, điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Nguyễn Du. Điều đáng lưu ý là dù trong hoàn cảnh cô đơn ở lầu Ngưng Bích Kiều là người đáng thương nhất nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương nhân hậu vị tha. Nàng là người tình thủy chung, là người con rất mực hiếu thảo, thật đáng trân trọng biết bao.

    Tóm lại bằng việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những từ ngữ hình ảnh tinh tế. Qua đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nói chung và tám câu thơ trên nói riêng Nguyễn Du đã khắc họa thành công và thật xúc động lỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều. Qua đây cho thấy, Kiều không chỉ là một cô gái tài sắc vẹn toàn mà còn là người thủy chung hiếu nghĩa. Đồng thời đoạn thơ cho ta thấy được tấm lòng ngợi ca trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa.

1
1
Phonggg
16/07/2020 03:19:12
+1đ tặng

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai

Xót người tựa cửa hôm mai

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Một trong những cái hay của Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều đó chính là miêu tả nội tâm của nhân vật. Từng dòng cảm xúc của Thúy Kiều qua cách chuyển tải của nhà thơ khiến độc giả không khỏi xúc động, bùi ngùi. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn thơ độc đáo như vậy. Khi mà trong đoạn trích này, Kiều hoài niệm và nhớ thương cho hai chữ hiếu – tình.

Sau khi trao duyên cho em là Thúy Vân, Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri để yên phận làm vợ, nào ngờ đó lại là chốn lầu xanh trêu hoa ghẹo bướm. Quyết giữ thân trong trắng, Kiều cự tuyệt và dùng mọi cách để không sa vào vũng bùn lầy nhơ nhuốc ấy. Đòn roi của mụ Tú Bà không khuất phục được ý chí giữ gì phẩm giá của người con gái đẹp. Mụ đưa Kiều vào lầu Ngưng Bích nhưng thực chất là giam lỏng và bắt đầu như âm mưu “thuần phục” nàng. Tại lầu Ngưng Bích, nhìn cảnh vật đượm nỗi ưu sầu với vẻ non xa, tấm trăng gần, cồn cát bụi bay mờ mịt, thời gian, không gian trôi qua vô hình vô định như chính cuộc đời nàng. Thương cho số phận của chính mình, Kiều nhớ về gia đình, nhớ về cha mẹ, nhớ về những người thân yêu và nhớ về mối tình dang dỡ với chàng Kim.

 

Trước hết, Kiều nhớ đến Kim Trọng. Đã có nhiều người phê phán rằng Kiều không phải là người con chí hiếu khi trong tình cảnh như thế này lại nhớ đến người yêu trước tiên. Có lẽ việc để Thúy Kiều nhớ về Kim Trọng trước cũng là một trong những dụng ý của tác giả. Trong cơn gia biến, Kiều đã phải hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh thành” cho cha mẹ. Vì thế trong lòng Kiều, Kim Trọng là người mất mát nhiều nhất, là người chịu tổn thương và đớn đau nhiều hơn tất cả, lời chia tay chưa kịp nói, lời giãi bày vẫn giữ trong lòng, nàng tự nhận mình là kẻ “thất tín”, “là người phụ bạc”, nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Kiều khiến Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trong mai chờ”

Tại sao tác giả lại không dùng từ nhớ mà lại dùng từ “tưởng”? “Tưởng” có nghĩa là nhớ nhung, hồi tưởng, vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu. Nàng nhớ lại đêm thề nguyền, khi hai người “đinh ninh hai miệng một lời song song” đồng thanh, đồng lòng thề ước sống bên nhau trọn đời trọn kiếp. Nhớ về quá khứ, Kiều như tưởng tượng thấy ở nơi xa xôi kia, người yêu cũng đang hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ trông tin nàng .

 

“Tin sương luống những rày trông mai chờ”.

Nhớ về Kim Trọng, Kiều đau đớn nhớ ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi. Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau đớn:

“Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Từ láy “bơ vơ” như khắc sâu hơn sự đơn côi vào thân phận. “Tấm son” ấy có lẽ là tấm lòng son sắt, thủy chung của nàng Kiều vẫn một lòng một dạ thủy dung hướng về Liêu Dương không bao giờ thay đổi. “Tấm son” ấy cũng có thể là tấm lòng son nhưng bị những kẻ đê hèn như Tú Bà, Mã Giám Sinh vùi dập làm cho hoen ố, tủi nhục, không biết phải làm sao và làm thế nào mới gột rữa hết nỗi đớn đau mà nàng phải dày vò, chịu đựng. Bi kịch tình yêu gắn liền với nỗi đau về nhân phẩm. Ký ức ngày xưa bị chôn vùi trong thực tại phũ phàng.

Chưa vơi nỗi nhớ người yêu, tâm hồn Kiều lại đớn đau thêm khi nỗi nhớ cha mẹ chồng chất xót xa:

“Xót người tựa cửa ôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Quyết định bán mình chuộc cha, Kiều trở thành người con chí hiếu, dũng cảm hy sinh bản thân để mong cha mẹ thoát cảnh lao tù khốn đốn. Nhớ về cha mẹ, nàng thấy “xót” khi tưởng tượng ở chốn quê nhà, hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con, hay mong chờ con đến đỡ đần. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không biết giờ đây ai là người chăm sốc cha mẹ khi thời tiết đổi thay, xót xa vì khi cha mẹ ngày một già yếu mà bản thân không thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng song thân. Tác giả đã sử dụng các thành ngữ “rày trông mai chờ”, “quạt nồng ấp lạnh”, “cách mấy nắng mưa”, điển cố “Sân Lai, gốc tử” để nối lên sự cách trở tàn phá của thời gian cùng tâm trạng nhớ thương, lo lắng, tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ.

 

Lẽ ra, trong hoàn cảnh này, Kiều là người đáng thương nhất, vừa phải xa người yêu, xa gia đình, vướng vào nhà chứa. Thế nhưng nàng vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu, nghĩ đến “chín chữ cao sâu” trong đạo hiếu. Chỉ như vậy thôi cũng đã đủ chứng tỏ Kiều là con người thủy chung hiếu nghĩa và rất đáng trân trọng.

Miêu tả khách quan tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều bằng nghệ thuật độc thoại nội tâm, Nguyễn Du đã bước qua hàng rào tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu để khắc họa chính xác, chân thật tâm lý nhân vật. Qua đây cũng thấy được tấm lòng trân trọng vẻ đẹp phẩm chất con người, đặc biệt là người phụ nữ của thi nhân – một trong những biểu hiện cho cảm hứng nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Du.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo