A.YÊU CẦU
-Nắm được nội dung của phương châm về lượng và phương châm về chất.
-Vận dụng các phương châm này trong giao tiếp.
B.GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI, BÀI TẬP
I – Phẩn bài học
PHƯƠNG CHẮM VỀ LƯỢNG
Câu hỏi 1. Đọc đoạn đôi thoại sau và trả lời câu hỏi.
An: – Cậu có biết bơi không?
Ba: – Biết chứ, thậm chí còn bơi giỏi nữa.
An: – Cậu học bơi ở đâu vậy?
Ba: – Dĩ nhiên là ở dưới nưtĩc chứ còn () đâu.
Khi An hỏi "học bơi ở đâu" mà Ba trả lời "ở dưới nước" thì câu trả lời có đáp ứng điều mà An muốn biết không? cần trả lời như thế nào? Từ đó có thể rút ra bài học gì về giao tiếp?
Gợi ý
Điều mà An muôn biết khi đưa ra câu hỏi "Bơi ở đâuT là địa điểm cụ thể (như bơi ở sông, hồ hay câu lạc bộ nào). Nội dung đó tuy không nói cụ thể ra nhưng được hiểu ngầm trong tình huống giao tiếp này. Câu trả lời của Ba là "ở dưđi nước" đã không đáp ứng được nội dung yêu cầu của câu hỏi. Như thế Ba đã vi phạm yêu cầu của phương châm về lượng: nói ít hơn điều cần nói mà cuộc giao tiếp đòi hỏi.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta có thể hiếu Ba trả lời theo kiểu đùa vui hay chơi chữ nào đây.
Câu hỏi 2. Đọc truyện cười sau và ưả lời câu hỏi (Truyện Lm cưới áo mới, SGK). Câu hỏi:
Vì sao truyện này lại gây cười? Lẽ ra anh có "lợn cưới" và anh có "áo mới" phải hỏi và ưả lời thế nào để người nghe đủ biết được điều cần hỏi và cần trả lời? Như vậy, cần phải tuân thủ yêu cầu gì khi giao tiếp?
Gợi ý
Anh có “áo mới” và anh có “lợn cưới” đều nói nhiều hơn điều cần nói. Tức là dư thông tin. Anh có “lợn cưới” chỉ cần nói: "Bác có thấy con lợn nào chạy qua đây không?", anh có “áo mới” cũng chỉ cần nói: "Tôi chăng thấy con lợn nào chạy qua đây cả". Như vậy, phần thông tin về áo mới và lợn cưới do hai người cố ý gài thêm vào để khoe khoang, do đó trở nên lố bịch, tức cười. Trong giao tiếp, người nói cần phải luân thủ nguyên tắc chỉ nói đủ, không nói thừa.
PHƯƠNG CHÂM VỀ CHẤT
Đọc truyện cười sau và trả lời câu hỏi (Truyện Quà bí khổng lồ, SGK.tr. 9).
Câu hỏi: Truyện cười này phê phán điều gì? Như vậy trong giao tiếp có điều gì cần tránh?
Gợi ý
Truyện cười trên phê phán thói khoác lác. Cả hai anh chàng đều nói những điều không có trong thực tế và chính họ cũng không tin là có trong thực tế. Như vậy, trong giao tiếp cần tránh nói điều mà mình không tin là đúng sự thật hoặc những điều không có bằng chứng xác thực.
II – Phần luyện tập
Bài tập 1. Vận dụng phương châm về lượng để phân tích lỗi trong những câu sau:
a)Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà.
b)Én là một loài chim có hai cánh.
Gợi ý
a.Câu “Trâu là một loài ỊỊÌa súc nuôi à nhà ” thừa lượng thông tin. Trong "gia súc" đã có nghĩa "nuôi ở nhà" rồi. Như vậy, chỉ cần nói "Trâu là một loài gia súc” hoặc “Trâu là một loài thú nuôi ở nhà ” là được.
b.Câu "Én là một loài chim có hai cánh” cũng là câu thừa iượng thông tin. Bởi vì loài chim nào mà chẳng cố hai cánh. Như vậy, chỉ cần nối "Én là một loài chim” là đủ.
Bài tập 2. Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống:
a)Nói có căn cứ chắc chắn là /../
b)Nói sai sự thật một cách cố ý, nhằm che giấu điều gì đó lù /../
c)Nói một cách hú hoạ, không có căn cứ là /../
d)Nói nhảm nhí, vu vơ là Ỉ..J
e)Nói khoác lác, lùm ra vẻ tài giỏi hoặc nói những chuyện bông đùa, khoác lác cho vui là /../
(nói trạng; nói nhăng nói cuội; nói có sách, mách có chứng; nói dối; nói mò)
Các từ ngữ ưên đều chỉ những cách nói liên quan đến một phương châm hội thoại đã học. Cho biết đó là phương châm hội thoại nào.
Gợi ý
– Điền vào chỗ trống:
a)Nói có căn cứ chắc chắn là nói có sách, mách có chứng.
b)Nói sai sự thật một cách cố ý, nhằm che giấu điều gì đó là nói dối.
c)Nói một cách hú hoạ, không căn cứ là nói mò.
d)Nói nhảm nhí vu vơ là nói nhăng nói cuội.
e)Nói khoác lác, làm ra vẻ tài giỏi hoặc nói những chuyện bông đùa, khoác lác cho vui là nói trạng.
-Các từ ngữ nói trên chỉ những cách nói tuân thủ phương châm hội thoại về chất (câu a) hoặc vi phạm phương châm hội thoại về chất (các câu còn lại).
Bài tập 3. Đọc truyện cười sau và cho biết phương châm hội thoại nào đã không được tuân thủ (Truyện Có nuôi được không? ưong SGK, tr. 11).
Gợi ý
Người nói đã không tuân thỏ theo phương châm về lượng. Câu hỏi "Rồi có nuôi được không?" là một câu hỏi thừa. Bỏi vì nếu như hồi ấy đứa ưẻ không nuôi được thì làm sao có bố anh bạn anh ta và tất nhiên là không thể có anh bạn anh ta. Đây cũng chính là chỗ gây ra tiếng cười của ừuyện.
Bài tập 4. Vận dụng những phương châm hội thoại đã học để giải thích vì sao người nối đôi khi phải dùng những cách diễn đạt như:
a)Như tôi được biết, tôi tin ràng, nếu tôi không lầm thì, tôi nghe nói, theo tôi nghĩ, hình như là,…
b)Như tôi đã trình bày, như mọi người đều biết.
Gợi ý
a.Khi giao tiếp, người nói cần tuân thỏ phương châm về chất. Nhưng vì một lí do nào đố mà người nối chưa khẳng định một cách chắc chắn nên đôi khi phải dùng những cách dièn đạt như: như tôi được biết, tôi tin rằng, nếu tôi không lầm thì, tôi nghe nói, theo tôi nghĩ, hình như là,… Những điều nói ra chỉ theo phỏng đoán chủ quan của người nói và chưa qua kiểm chứng thực tế.
b.Phương châm vc lượng đòi hỏi người nói phải nối cố nội dung và nội dung phải đủ, không thừa hoặc thiếu. Cách diễn đạt như tôi đã trình bày, như tôi được biết cho thây người nói muốn nhắc lại cho người nghe điều mình đã nói, điều mọi người đã biết để tiện cho người nghe theo dõi mà không vi phạm phương châm về lượng.
Bài tập 5. Giải thích nghĩa của các thành ngữ sau và cho biết những thành ngữ này có liên quan đến phương châm hội thoại nào: ăn đơm nói đặt ăn ốc nỏi mò, ăn không nói có, cãi chùy cãi cối, khua môi múa mép, nói dơi nói chuột, hứa hươu hứa vượn.
Gợi ý
-Ăn đơm nói đặt: nói những điều không có, đặt điều, bịa chuyện.
-Ăn ốc nói mò: nói không có căn cứ, nói theo suy diễn tuỳ tiện.
-Ăn không nói có: vu không, bịa đặt.
* Cãi chày cài cối: cố cãi, cãi liều, không có lí lẽ thích đáng.
-Khua môi múa mép: nói ba hoa, khoác lác cốt để phô trương.
-Nói dơi nói chuột: nói linh tinh, lăng nhăng, không có mục đích nghiêm chỉnh.
-Hứa hươu hứa vượn: hứa hão, hứa để được lòng, không thực hiện lời hứa.
Tất cả các thành ngữ ưên đều chỉ những cách nối năng không tuân thủ phương châm về chất.