Truyện Kiều là kiệt tác văn học của thiên tài Nguyễn Du, là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân tộc và thế giới. Nổi bậc trong Truyện Kiều là bút pháp tả người, ta cảnh đạt đến bậc điêu luyện tài tình hiếm có của nhà thơ, có sức mạnh làm nên vẻ mềm mại của tác phẩm trong câu chuyện hết sức khố liệt và bi thương. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” thể hiện sâu sắc bút pháp nghệ thuật ấy
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm ở phần mở đầu của phần thứ nhất: gặp gỡ và đính ước. Khi giới thiệu gia đình Thuý Kiều, tác giả tập trung miêu tả tài sắc hai chị em thuý vân, Thuý Kiều. Đoạn thơ có kết cấu đoạn trích gồm 4 phần. Bốn câu đầu giới thiệu khái quát hai chị em Thuý Kiều. Tác giả dành bốn câu tiếp gợi tả vẻ đẹp Thuý Vân và mười hai câu còn lại gợi tả vẻ đẹp thuý Kiều. Bốn câu cuối cuối là nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.
Mở dầu đoạn thơ, Nguyễn Du giới thiệu khái quát về nhân vật. Với bút pháp ước lệ, tác giả đã gợi được vẻ thanh cao, duyên dáng, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thuý Kiều:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. “
Thúy Kiều và Thúy Vân là hai con gái đầu lòng của nhà Vương ông. Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em. Sau Thúy Vân còn có Vương Quan nữa nhưng nhà thơ chưa giới thiệu ở đây. Sự phân định thứ tự chị em không những xác định thứ vị mà còn ngầm xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của ba chị em đối với gia đình.
Qua sự miêu tả của nhà thơ, người đọc thấy rõ, đây là hai bậc mỹ nhân xinh đẹp hiếm có ở trên đời. Cả hai đều mang cốt cách thanh cao như mai, tâm hồn trắng trong như tuyết. Đó là vẻ đẹp hoàn hảo mang từ hình thể đến tâm hồn. Cả hai đều đẹp “mười phân vẹn mười” nhưng mỗi người lại mang vẻ đẹp riêng.
Tiếp sau phần giới thiệu sơ lược, Nguyễn Du đi vào đặc tả vẻ đẹp bức chân dung của Thuý Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Câu thơ mở đầu vừa giới thiệu Thuý Vân vừa khái quát vẻ đẹp của nhân vật. Hai chữ “trang trọng” gợi vẻ cao sang, quý phái. Với bút pháp nghệ thuật ước lệ, vẻ đẹp của Vân được so sánh với những thứ cao đẹp nhất trên đời, trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Bằng thủ pháp liệt kê chân dung Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, giọng nói, phong thái ứng xử nghiêm trang, đứng đắn. Mỗi chi tiết được miêu tả cụ thể hơn nhờ bổ ngữ, định ngữ, hình ảnh so sánh ẩn dụ.
Tác giả đã vẽ nên bức chân dung Thuý Vân bằng nghệ thuật so sánh ẩn dụ và ngôn ngữ thơ chọn lọc, chau chuốt: khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, tươi sáng như mặt trăng; lông mày sắc nét như con ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc; mái tóc đen óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết (khuôn trăng… màu da).
Chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ nhất của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp êm đềm với xung quanh: mây thua, tuyết nhường. Thuý Vân hẳn có một tính cách ung dung, điềm đạm, một cuộc đời bình yên không sóng gió.
Trên nền vẻ đẹp của Thúy Vân, bằng bút pháp ước lệ đặc sắc và mọt vài nét vẽ đơn sơ, thi hào Nguyễn Du đã vẻ nên bức chân dung tuyệt sắc của thúy Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Không cần phải tô vẽ nhiều, chỉ khắc họa hai chi tiết thôi ta đã thấy hiện lên vẻ đẹp toàn thiện, toàn bích của Thúy Kiều. Nàng có vẻ đẹp vô cùng sắc sảo và mặn mà. Vẻ đẹp nàng sắc cạnh, mạnh mẽ, tinh tế, chứa đầy nghị lực, ai nhìn cũng yêu mến, ngay lập tức bị quyến rũ và chinh phục. Nàng sắc sảo cả ở trí tuệ và mặn mà trong tâm hồn. Sắc tài hòa hợp làm nên vẻ đẹp trác việt.
Gợi tả vẻ đẹp của Kiều tác giả vẫn dùng những hình tượng ước lệ: thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu. Đặc biệt khi hoạ bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt. Hình ảnh “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn” là hình ảnh mang tính ước lệ, đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ, gợi lên một đôi mắt đẹp trong sáng, long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét mùa xuân. Đôi mắt đó là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn, trí tuệ.
Tả Kiều, tác giả không cụ thể như khi tả Vân mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối điểm nhãn – vẽ hồn cho nhân vật, gợi lên vẻ đẹp chung của một trang giai nhân tuyệt sắc. Vẻ đẹp ấy làm cho hoa ghen, liễu hờn, nước nghiêng thành đổ. Nguyễn Du không miêu tả trực tiếp nhân vật mà miêu tả sự ghen ghét, đố kị hay ngưỡng mộ, say mê trước vẻ đẹp đó, cho thấy đây là vẻ đẹp có chiều sâu, có sức quyến rũ, cuốn hút lạ lùng.
Vẻ đẹp tiềm ẩn phẩm chất bên trong cao quý, cái tài, cái tình đặc biệt của Kiều. Tả Thuý Vân chỉ tả nhan sắc, còn tả Thuý Kiều, tác giả tả sắc một phần thì dành hai phần để tả tài. Kiều rất mực thông minh và đa tài “thông minh vốn sẵn tính trời”. Tài của Kiều đạt đến mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, hội đủ cầm, kỳ, thi, hoạ “Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm”. Tác giả đặc tả tài đàn là sở trường, năng khiếu; thông thạo âm luật “cung thương lầu bậc ngũ âm”; các loại nhạc khí nàng cũng chơi hết sức diêu luyện, tinh tường. Không chỉ vậy, nàng còn giỏi sáng tác nhạc. Cung đàn Bạc mệnh của Kiều là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm:
“Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.
Tả tài, Nguyễn Du thể hiện được cả cái tình của Kiều. Chân dung Thuý Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp khi cho tạo hoá phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kị, tài hoa trí tuệ thiên bẩm “lai bậc” đủ mùi, cả cái tâm hồn đa sầu đa cảm khiến Kiều không thể tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã, số phận éo le, gian khổ bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. “Trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen”. Cuộc đời Kiều hẳn là cuộc đời hồng nhan bạc mệnh.
Dù mang sắc đẹp có thể khiến cho đất trời nghiêng ngả, nhưng hai chị em Thúy Kiều luôn giữ đúng phép tắc, sống kín đáo trong tư gia của mình. Họ sống phong lưu, khuôn phép, đức hạnh, theo đúng khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Tuy cả hai đều đã đến tuổi búi tóc cài trâm, duyên tình phơi phới nhưng vẫn kín kẽ “trướng rũ màn che”, mặc cho “tường đông ong bướm đi về”, không hề nghĩ đến chuyện hẹn hò lứa đôi.
Có thể nói tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả nhân vật Thuý Kiều. Tác giả miêu tả chân dung Thuý Vân trước để làm nổi bật chân dung Thuý Kiều, ca ngợi cả hai nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người: chỉ dành bốn câu thơ để tả Vân, trong đó dành tới 12 câu thơ để tả Kiều, Vân chỉ tả nhan sắc, Kiều cả tài , sắc, tình đều đặc đặc tả. Đó chính là thủ pháp đòn bẩy được vận dụng hết sức tài hoa và hiệu quả.
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ để ca ngợi cả hai chị em Thúy vân, Thúy Kiều nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người, rõ ràng bức chân dung của Thúy Kiều nổi bật hơn. Nếu ở bức chân dung của Thúy Vân, Nguyễn Du dùng 4 câu thơ để tả ngoại hình. Nghĩa là Vân chỉ được chú trọng ở vẻ đẹp hình thức. Miêu tả chân dung Thuý Vân trước là để làm nổi bật chân dung Thuý Kiều. Thế nhưng khi miêu tả bức chân dung của Thúy Kiều, nhà thơ Nguyễn Du đã dùng đến 12 câu đặc tả.
Đặc tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du tập trung miêu tả các chi tiết trên khuôn mặt nàng bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật liệt kê. Thuý Vân xinh đẹp, thùy mị đoan trang, phúc hậu và rất khiêm nhường. Đặc tả vẻ đẹp của Thuý Kiều, Nguyễn Du tập trung làm nổi bật vẻ đẹp của sắc đẹp, tài năng và tâm hồn. Đặc tả đôi mắt của Kiều, thi hào lại vận dụng lối điểm nhãn, vẽ hồn cho nhân vật, gợi nhiều hơn tả. Đặc điểm ngoại hình được gọi tả ít hơn nhưng tuyệt sắc hơn gấp nhiều lần. Nguyễn Du tập trung làm nổi bật vẻ đẹp của sắc đẹp, tài năng và tâm hồn.
Cách dùng điển cố “nghiêng nước nghiêng thành” diễn tả vẻ đẹp hoàn hảo có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Tài năng của Kiều không nhưng phong phú, đa dạng, mà cái nào cũng đều đạt tới mức lý tưởng. Cái tài của Nguyễn Du biểu hiện ở chỗ miêu tả ngoại hình nhân vật làm hiện lên vẻ đẹp tính cách và tâm hồn. Và đằng sau những tín hiệu ngôn ngữ lại là dự báo về số phận nhân vật.
Thúy Vân đẹp đến hiếm có. Vẻ đẹp ấy hiền hòa, làm cho đất trời mến yêu, biết “thua”, biết “nhường”. Điều đó dự báo Thuý Vân có cuộc sống êm đềm, suôn sẻ. Vẻ đẹp của Thúy Kiều đạt đến bực chưa từng có ở trên đời. Vẻ đẹp ấy khiến cho đất trời đã phải đố kỵ, phải “hờn”, phải nảy sinh lòng “ghen”. Phải chăng, điều đó ngầm dự báo Thuý Kiều bị tạo hóa phát lòng đố kỵ, ganh ghét nên số phận của nàng phải gánh chịu nhiều khổ đau. Không thể dựa vào điều đó để dự đoán những tai ương có thể xảy đến nhưng quả thực sau này, Thúy Kiều đã phải sống kiếp trầm luân, dâu bể hết sức đau thương, tàn khốc.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều đã thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du khắc hoạ nét riêng về nhan sắc, tài năng, tính cách, số phận nhân vật bằng bút pháp nghệ thuật cổ điển. Đoạn thơ khắc hoạ rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thuý Kiều, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du. Thuý Kiều, Thuý Vân và nhân vật chính diện, thuộc kiểu nhân vật lý tưởng trong Truyện Kiều. Để khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật lý tưởng, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ – lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ thể mà chủ yếu là tả để gợi. Sử dụng biện pháp đòn bẩy làm nổi bật hình ảnh Thuý Kiều.
Đoạn trích cũng đã thể hiện rõ cảm hứng nhân đạo của tác giả Nguyễn Du. Truyện Kiều ca ngợi, đề cao những giá trị, phẩm chất của con người như nhan sắc, tài hoa, nhân phẩm, khát vọng, ý thức về thân phận, nhân phẩm cá nhân. Trong đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh đẹp nhất, những ngôn từ hoa mĩ nhất để miêu tả vẻ đẹp con người, phù hợp với cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca giá trị con người. Tác giả còn dư cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Kiều. Đó chính là cảm hứng nhân văn cao cả của Nguyễn Du xuất phát từ lòng đồng cảm sâu sắc với mọi người.
Đoạn thơ cũng cho thấy sức sáng tạo tài tình của thiên tài Nguyễn Du. Dù mượn cốt truyện và bối cảnh từ Kim Vân Kiều Truyện nhưng Truyện Kiều không phải là một sản phẩm phóng tác đơn giản. Nếu như Thanh Tâm Tài Nhân kể về hai chị em Thuý Kiều bằng văn xuôi thì Nguyễn Du miêu tả họ bằng thơ lục bát; Thanh Tâm Tài Nhân chủ yếu là kể về hai chị em Kiều; còn Nguyễn Du thì thiên về gợi tả sắc đẹp Thuý Vân, tài sắc Thuý Kiều; Thanh Tâm Tài Nhân tả Kiều trước, Vân sau: “Thuý Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào còn Thúy Vân thì tinh thần tĩnh chính, dung mạo đoan trang, có một phong thái riêng khó mô tả”. Nếu đọc Kim Vân Kiều truyện, ta cảm giác như tác giả tập trung vào Vân hơn, hình ảnh của Vân nổi bật hơn; ngay ở đoạn giới thiệu đầu truyện, hình ảnh Kiều cũng không thật sự nổi bật; còn trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du tả Vân trước làm nền tô đậm thêm vẻ đẹp của Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy tài hoa phi thường.
Khi miêu tả, Nguyễn Du đặc biệt chú trọng đến tài năng của Kiều, qua việc miêu tả ngoại hình, tài hoa còn thể hiện được tấm lòng, tính cách và dự bảo được số phận nhân vật. Thanh Tâm Tài Nhân không làm được điều đó, bút pháp cá thể hoá nhân vật của ông không rõ nét bằng của Nguyễn Du. Nhưng sự khác biệt này đã giải thích vì sao cùng một cốt chuyện mà “Kim Vân Kiều truyện” chỉ là cuốn sách bình thường, vô danh, mãi mãi chìm sâu trong lớp bụi thời gian còn “Truyện Kiều” được coi là một kiệt tác bất hủ mãi mãi trường tồn cùng dân tộc Việt nam và nhân dân thế giới. Cùng với điều đó, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là tác giả không có danh tiếng, ít người biết đến trong khi Nguyễn Du là một tác giả lớn, một đại thi hào, một danh nhân văn hóa kiệt xuất của nhân loại.
Dồn hết tâm lực vào tác phẩm, khắc họa cực điểm sắc đẹp và tài năng của nhân vật, phải chăng, thiên tài Nguyễn Du muốn ca ngợi cái đẹp hoàn hảo của nhân dân, cái số phận bi thương của người phụ nữ, cái khắc nghiệt của tạo hóa. Con người dẫu xinh đẹp và tài năng đến mấy cũng không thể thoát khỏi cái định mệnh mà tạo hóa đã an bài. Ẩn sau cái định mệnh là bóng dáng của chế độ phong kiến bất công, tàn bạo, đã chà đạp lên nhân phẩm và quyền sống của con người, đẩy họ vào bước đường cùng không lối thoát.