Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Đọc đoạn trích chị em thúy kiều bằng lời của thúy kiều bằng văn xuôi

đọc đoạn trích chị em thúy kiều bằng lời của thúy kiều bằng văn xuôi

3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
430
0
0
Nguyễn Nam
22/10/2020 20:34:21
+5đ tặng

Nhân vật Đăm Săn nổi bật lên trong toàn bộ cuốn sử thi nói chung và đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” nói riêng hai khía cạnh. Một mặt, đó là con người hội đủ những phẩm chất cá nhân như trí tuệ, tài năng, nhân cách, khát vọng. Mặt khác, đó còn là sự gắn bó, liên kết với cộng đồng mà chính chàng là tù trưởng. Với cái nhìn ấy, ta thấy nhân vật Đăm Săn đã tự khẳng định mình trong những biến cố, sự kiện ở đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.

Xét về tình tiết trong mô hình cốt truyện thì cuộc giao tranh giữa Đăm Săn với các tù trưởng khác không chỉ xảy ra có một lần. Dường như nhu cầu mở rộng lãnh địa, tăng cường lực lượng, khẳng định quyền uy... là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những cuộc giao tranh ấy. Nhưng trong các cuộc chiến xảy ra thì cuộc đối mặt giữa Đăm Săn với Mtao Mxây có tính chất điển hình hơn cả.

Đối thủ của Đăm Săn là Mtao Mxây, một đối thủ ngang tầm. Tuy võ nghệ không thuộc hàng cao thủ nhưng Mtao Mxây là một kẻ “túc trí đa mưu”, lấy sự sắc sảo, khôn ngoan làm sức mạnh cho mình. Không tin vào bản thân thì làm sao dám táo tợn cướp vợ của Đăm Săn! Và khi biết Đăm Săn tới để làm gì rồi mà còn khiêu khích “Ta không xuống đâu, diêng ơi. Tay ta đang còn bận ôm vợ hai chúng ta…”.

Thái độ nghênh chiến của Mtao Mxây khá đàng hoàng: “Bà con xem, khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. Trông hắn dữ tợn như một vị thần”. Có thể nói, đó là tư thế tự tin. Tự tin nhưng thận trọng. Hai lần Mtao Mxây nhắc Đăm Săn không được đâm mình khi Mtao Mxây đi xuống và lúc đi xuống rồi vẫn còn do dự, đắn đo. Cách ứng xử của Mtao Mxây theo lối “quân tử phòng thân” luôn đề phòng bất trắc.

Bước vào cuộc chiến, Mtao Mxây nhường cho Đăm Săn múa khiên trước với một thái độ khiêm tốn giả vờ. Giả vờ nói rằng võ nghệ của mình kém cỏi: “Ta như gà làng mới mọc cựa, như gà rừng mới mọc cựa êchăm, chưa ai giẫm phải mà đã gãy mất cánh”. Võ nghệ ấy là chắp vá: “Có cậu, ta học cậu. Có bác, ta học bác. Có thần Rồng, ta học thần Rồng”. Nhưng từ sự giả vờ ấy đã lộ ra một câu nói thật: “Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quên đi xéo nát đất đai thiên hạ hay sao?”. Không phải vô tình mà câu kể khan của người dẫn truyện ngay từ đầu đã phác ra cái vẻ sang trọng, tôn nghiêm, bề thế của Mtao Mxây, một tù trưởng giàu mạnh trong vùng. Cái cách giả vờ ấy phải chăng làm cho đối thủ chủ quan, khinh suất?

Mặc cho Đăm Săn khinh bỉ, mặc cho mình múa khiên không đẹp (múa “kêu lạch xạch như quả mướp khô”), tốc độ lại chậm chạp, nặng nề (“bước cao bước thấp”) nhưng Mtao Mxây không nản lòng. Y rắp tâm chờ cơ hội. Và khi cơ hội đến, hành động của Mtao Mxây nhanh hơn một chớp mắt: đâm lén Đăm Săn. Khi Mtao Mxây “chém phập một cái”, chắc chắn Đăm Săn không khỏi giật mình. May cho Đăm Săn là nhát chém quá nhanh và không ngờ ấy của địch lợi hại “chỉ vừa trúng một cái chão cột trâu”.

Hai trợ thủ cuối cùng của Mtao Mxây là miếng trầu của Hơ Nhị và cái áo giáp che thân. Đăm Săn chỉ vô hiệu hóa được con bài thứ nhất, đến con bài thứ hai thì Đăm Săn đã bất lực hoàn toàn. Đùi Mtao Mxây bị đâm trúng nhưng không thủng, người Mtao Mxây cũng thế. Nếu không có sự giúp sức của Ông Trời thì Đăm Săn chắc chắn sẽ trắng tay, cả danh dự và quyền uy vì chàng sẽ là người bại trận.

Nhìn chung cách khắc họa nhân vật (cả Mtao Mxây và Đăm Săn) của đoạn trích là kết hợp hai yếu tố: đối thoại giữa các nhân vật và lời người dẫn chuyện. Riêng với nhân vật Đăm Săn, tác giả cuốn truyện còn thực hiện phép đối xứng nghệ thuật nữa. Bằng cách ấy, nhân vật Đăm Săn xuất hiện như một điểm nhấn rực rỡ, sáng ngời.

Trước hết, chàng là người cương trực, thẳng thắn, không đê tiện, nhỏ nhen. Bởi vậy khi chạm vào những ý nghĩa hèn hạ, mờ ám của Mtao Mxây, Đăm Săn như người đụng phải lửa. Hai lần Mtao Mxây cất tiếng (“không được đàm ta khi ta đang đi xuống”) là hai lần Đăm Săn như thấy lòng tự trọng bị tổn thương. Qua đối thoại của chàng, ta cảm nhận được sự khinh khi, tức giận: “Ngươi xem, đến con lợn nái của nhà ngươi dưới đất, ta cũng không thèm đâm nữa là!”. Và đối lập với những ý nghĩ vẩn đục của Mtao Mxây, tâm hồn của Đăm Săn thật là trong sáng.

Mặc dù đến nhà Mtao Mxây để gây chiến vì Đăm Săn có lý do khiêu chiến, nhưng chàng không vội ra tay. Phải bình tĩnh đến mức nào đó để không làm cho cơn giận bùng lên, Đăm Săn mới nhường cho Mtao Mxây múa khiên trước. Chỉ thực sự gai mắt khi chứng kiến lời nói của đối thủ, khoác lác huênh hoang mà thực tài kém cỏi, Đăm Săn mới thực sự rung khiên.

Tài nghệ phi thường của Đăm Săn được chứng thực trong cuộc múa khiên hùng tráng. Có đến hai dụng ý nghệ thuật của tác phẩm sử thi mà người kể khan đã dùng đắc địa. Thứ nhất là biện pháp đối lập hai chiều (giữa cảnh Mtao Mxây múa gươm trước với cái cách múa khiên đầy tốc độ của Đăm Săn “Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô” là những đường gươm chậm chạp, nặng nề của Mtao Mxây: “bước cao bước thấp chạy hết bãi tây sang bãi đông”. Thứ hai là vai trò của người dẫn truyện. Trong đợt múa khiên tiếp theo, đối xứng nghệ thuật đã không còn. Thay vào đó là lời thuyết minh của người chứng kiến. Trong lần múa khiên này, võ nghệ của Đăm Săn không còn là tốc độ mà chuyển sang cường độ. Nếu tốc độ múa khiên của chàng cứ thấy “vun vút” (“vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”) thì cường độ múa khiên của chàng lại là một trận bão lớn. Chỉ còn lại một hào hứng, một tung hô đầy kinh ngạc: “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lãn lóc. Cầy cối chết rụi. Khi chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Khi chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung…”. Thủ pháp cường điệu khoa trương thật thích hợp trong văn cảnh này. Nó làm đậm lên một sức mạnh, một năng lực phi phàm chỉ những người xuất chúng như Đăm Săn mới có. Như thế là kịch tính đã phát triển tới tốc độ, tính hàm súc, lắng đọng cũng đạt đến độ cao.

Nhưng sự cường điệu khoa trương không bao giờ là vô hạn. Sức mạnh của Đăm Săn quả là có giới hạn. Nó biết dừng lại ở sự có lý ngay cả trong tư duy có yếu tố thần thoại của tác phẩm sử thi. Trong trường hợp ấy cần có thần linh trợ giúp. Ông trời, ông bụt hiện lên đúng lúc từ những giấc mơ. Trời, bụt giúp người hoạn nạn. Trời, bụt cũng giúp cho những khát vọng lớn của con người. Nhân vật ông trời ở đây đứng về phía Đăm Săn, phát hiện cho chàng cái “gót chân A-sin” của địch thủ. Chỉ tới lúc đó, Mtao Mxây mới không còn một thành lũy nào ẩn nấp. Khi cái áo giáp của Mtao Mxây rơi xuống, hắn mới hiện nguyên hình là một kẻ yếu đuối biết bao! Hình ảnh cái chuồng lợn, chuồng trâu bẩn thỉu đã xuất hiện ở đầu đoạn văn, nay được lặp lại với một ý vị mỉa mai trên một tinh thần khác. Ở lần thứ nhất nó liên quan đến nhân cách của Mtao Mxây thì lần thứ hai nó lại liên quan đến sức mạnh của một kẻ không còn gì đáng sợ nữa.

Nếu cuộc chiến giữa Đăm Săn với Mtao Mxây khắc họa một phương diện của Đăm Săn, phương diện con người cá nhân thì cảnh trở về và lễ ăn mừng chiến thắng lại mở ra một góc khác của con người anh hùng đó: con người cộng đồng, con người xã hội.

Vốn là một tù trưởng giàu mạnh, Đám Săn có trách nhiệm với bộ tộc đã đành. Chính vì danh dự của Đăm Săn bị xúc phạm (Mtao Mxây cướp vợ của Đăm Săn) cũng là danh dự của bộ tộc bị xúc phạm mà chàng đã dấy binh. Chiến thắng kẻ thù rồi, danh dự được bảo vệ rồi, trách nhiệm của Đăm Săn tăng lên gấp đôi. Có trách nhiệm với tôi tớ, dân làng của mình, chàng có nghĩa vụ che chở cho tôi tớ, dân làng của Mtao Mxây nữa. Sự mở rộng địa bàn ở đây không có nghĩa thôn tính một cách áp đặt, giản đơn. Nó dựa trên nguyên tắc tự nguyện và người thủ lĩnh mới không hề có định kiến mà ngược lại hết sức bình đẳng, chân tình. Không một hiệu lệnh nào thúc ép, không một lời nói nào cao giọng răn đe. Đăm Săn đã gõ cửa từng nhà. Biện pháp nghệ thuật ở đây là hình thức tiếng vang. Một câu nói của Đăm Săn truyền đi, một câu trả lời vọng lại để rồi một câu hỏi từ đó lại lan xa từ nhà này qua nhà khác. Câu hỏi thứ nhất (của Đăm Săn): “Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói! ơ tất cả tôi tớ bằng này! Các ngươi có đi với ta không?”. Câu trả lời thứ nhất (của dân làng): “Không đi sao được! Tù trưởng chúng tôi đã chết, lúa chúng tôi đã mục, chúng tôi còn ở với ai?”... Câu hỏi thứ hai (của Đăm Săn): “Ơ tất cả dân làng này, các ngươi có đi với ta không? Tù trưởng các ngươi đã chết, lúa các ngươi đã mục. Ai đi chăn ngựa hãy đi bắt ngựa! Ai giữ voi hãy đi bắt voi! Ai giữ trâu hãy đi lùa trâu về!”. Cứ như thế một cuộc chạy tiếp diễn ra tạo nên sự kết tinh, hòa đồng gắn bó hai bộ tộc của Đăm Săn và Mtao Mxây làm một.

Lễ mừng chiến thắng do đó không chỉ đóng khung trong nghĩa hẹp là trừng trị một kẻ ác (Mtao Mxây) đã thành công. Nó mang một ý nghĩa kép: vừa chiến thắng kẻ thù vừa nhân lên gấp đôi sức mạnh của bộ tộc. Bởi vậy, âm hưởng của bản anh hùng ca mới ngát trời hào hứng: rộn rã âm thanh của các loại chiêng có tiếng đồng tiếng bạc cùng với vòng nhạc rung lên làm cho tất cả mọi giống loài phải im tiếng để nhường chỗ cho một sự kiện trang nghiêm chưa từng có bao giờ. Và rồi sau cái phút nín lặng âm thanh ấy, một bản hòa ca còn hùng tráng hơn bởi có sự tham gia của “Lươn trong hang, giun trong bùn, rắn hổ, rắn mang đều chui lên nằm trên cao sưởi nắng”. Ếch nhái cũng hoan hỷ, vui mừng, cùng kỳ nhông ngoài bãi “kêu rên inh ỏi suốt ngày đêm”. Không gian cứ mở rộng ra đến cùng trời cuối đất. Không gian của niềm vui và không gian của danh tiếng Đăm Săn: “Nhà Đăm Săn đông nghịt khách... Các khách tù trưởng đều từ phương xa đến”. Lại nữa: “Danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nghe danh tiếng Đăm Săn”.

Trong bối cảnh nhộn nhịp tưng bừng ấy, hình tượng Đăm Săn hiện lên như một vị thần: oai phong về ngoại hình và đầy sức sống tiền tàng nội lực. Lúc Đăm Săn nằm trên võng nghỉ ngơi “Tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa”. Còn khi xuất hiện trước đám đông thì rực rỡ với “Ngực quấn chéo một tấm mên chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre”. Đăm Săn, trong con mắt của tôi tớ, dân làng, khách khứa là một sức mạnh vô địch, “một trang tù trưởng mới giàu lên, đang tràn đầy sức trai, tiếng tăm lừng lẫy”.

Về nghệ thuật kể chuyện trong đoạn văn có những đặc điểm nổi bật như kể chuyện kết hợp với miêu tả tạo nên hứng thú của cảm giác liền mạch nhưng lại có điểm dừng, vừa bao quát vừa đi sâu vào từng chi tiết. Ở đây còn một sự kết hợp thứ hai giữa câu chuyện được kể và người kể nhằm cá thể hóa vai trò chủ quan vừa tạo không khí đang diễn ra vừa gây được sự đồng cảm của những người nghe trong hình thức diễn xướng. Riêng ngôn ngữ sử thi thì đoạn văn là một ví dụ điển hình. Ngôn ngữ ấy vừa giàu chất hội họa (thông qua hình ảnh) vừa giàu chất âm nhạc (thông qua nhịp điệu). Hình ảnh thì có khi là tả thực, có khi là phóng đại, cường điệu, khoa trương. Riêng về âm nhạc thì tuy đoạn văn được kể dưới hình thức văn xuôi nhưng rất gần với thơ ở nhịp điệu, tiết tấu cân xứng, hài hòa, du dương trầm bổng. Để chứng minh những điều nhận định trên đây không khó. Có điều chắc chắn là với cách kể ấy, với ngôn ngữ ấy, ta được lắng nghe một thứ phối hợp của nhiều thể loại, một thứ hòa thanh của nhiều nhạc cụ, làm thức dậy nhiều giác quan. Sức hấp dẫn của nó là không thể nào cưỡng nổi. Đó là dấu hiệu của một tác phẩm sử thi đạt tới đỉnh cao trong sự sáng tạo tuyệt vời.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Nguyễn Nam
22/10/2020 20:39:40
+4đ tặng

mình nhầm bài trên 



Tại một miền phụ cận Bắc Kinh có gia đình họ Vương. Hai ông bà sống với ba người con; họ thuộc về hạngtrung lưu,khá giả. Cậu con trai có phận sự nối nghiệp nho gia tên là Vương Quan, người con út.Đầu lòng là hai cô con gái,đẹp như trăng: cô chị tên là Thúy Kiều, cô em tên là ThúyVân. Cốt cách của hai chị em là cốt cách thanh tao của mai, thần thái của hai chị em làthần thái trong sáng của tuyết. Mỗi người đẹp một cách khác nhau, và người nào cũng rấtđẹp.Thúy Vân có nét đẹp đài các sang trọng khác thường: khuôn mặt rạng rỡ như trăng, lôngmày nở dài như liễu. Nụ cười tươi thắm như hoa. Giọng nói nàng thanh tao nhưngọc. Mây cũng không dịu bằng mái tóc, tuyết cũng không mịn bằng làn da. Vậy màThúy Kiều lại còn sắc sảo và mặn mà hơn. Lông mày nàng như dáng núi mùa xuân, haimắt nàng như hồ thu nước biếc. Khóm hoa cũng phảighen tức vì không tươi thắm bằngnàng, rặng liễu cũng phải hờn dỗi vđược xanh tốt như nàng. Nụ cười của Kiềucókhả năng làm nghiêng nước nghiêng thành. Đvề mặtsắc đẹp, Kiều chắc phải đứngvào hạng nhất, điềuđó đãđành. Nhưng đứng về mặt tài hoa cũng chưa chắc có ai sánhđược với nàng. Không những Kiều rấtthông minh mà nàng còn làm thơ rđẹp và ca ngâm rài. Nàng cũng có khiếu về âm nhạc, rất giỏivềnghệthuật sáng táctheo cung bực ngũ âm, sử dụng đàn hồ cầm rất khéo, không ai theo kịp. Một trong nhữngbản nhạc mà nàng tự tay sáng tác có tên là Phận Mỏng (Bạc Mệnh), một bản nhạc rấthay, ai nghe cũng cảm thấy thấm thía ruột gan, ảo não cảcõi lòng.

1
0
Trần Đức
22/10/2020 21:36:03
+3đ tặng

Nhân vật Đăm Săn nổi bật lên trong toàn bộ cuốn sử thi nói chung và đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” nói riêng hai khía cạnh. Một mặt, đó là con người hội đủ những phẩm chất cá nhân như trí tuệ, tài năng, nhân cách, khát vọng. Mặt khác, đó còn là sự gắn bó, liên kết với cộng đồng mà chính chàng là tù trưởng. Với cái nhìn ấy, ta thấy nhân vật Đăm Săn đã tự khẳng định mình trong những biến cố, sự kiện ở đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.

Xét về tình tiết trong mô hình cốt truyện thì cuộc giao tranh giữa Đăm Săn với các tù trưởng khác không chỉ xảy ra có một lần. Dường như nhu cầu mở rộng lãnh địa, tăng cường lực lượng, khẳng định quyền uy... là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những cuộc giao tranh ấy. Nhưng trong các cuộc chiến xảy ra thì cuộc đối mặt giữa Đăm Săn với Mtao Mxây có tính chất điển hình hơn cả.

Đối thủ của Đăm Săn là Mtao Mxây, một đối thủ ngang tầm. Tuy võ nghệ không thuộc hàng cao thủ nhưng Mtao Mxây là một kẻ “túc trí đa mưu”, lấy sự sắc sảo, khôn ngoan làm sức mạnh cho mình. Không tin vào bản thân thì làm sao dám táo tợn cướp vợ của Đăm Săn! Và khi biết Đăm Săn tới để làm gì rồi mà còn khiêu khích “Ta không xuống đâu, diêng ơi. Tay ta đang còn bận ôm vợ hai chúng ta…”.

Thái độ nghênh chiến của Mtao Mxây khá đàng hoàng: “Bà con xem, khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. Trông hắn dữ tợn như một vị thần”. Có thể nói, đó là tư thế tự tin. Tự tin nhưng thận trọng. Hai lần Mtao Mxây nhắc Đăm Săn không được đâm mình khi Mtao Mxây đi xuống và lúc đi xuống rồi vẫn còn do dự, đắn đo. Cách ứng xử của Mtao Mxây theo lối “quân tử phòng thân” luôn đề phòng bất trắc.

Bước vào cuộc chiến, Mtao Mxây nhường cho Đăm Săn múa khiên trước với một thái độ khiêm tốn giả vờ. Giả vờ nói rằng võ nghệ của mình kém cỏi: “Ta như gà làng mới mọc cựa, như gà rừng mới mọc cựa êchăm, chưa ai giẫm phải mà đã gãy mất cánh”. Võ nghệ ấy là chắp vá: “Có cậu, ta học cậu. Có bác, ta học bác. Có thần Rồng, ta học thần Rồng”. Nhưng từ sự giả vờ ấy đã lộ ra một câu nói thật: “Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quên đi xéo nát đất đai thiên hạ hay sao?”. Không phải vô tình mà câu kể khan của người dẫn truyện ngay từ đầu đã phác ra cái vẻ sang trọng, tôn nghiêm, bề thế của Mtao Mxây, một tù trưởng giàu mạnh trong vùng. Cái cách giả vờ ấy phải chăng làm cho đối thủ chủ quan, khinh suất?

Mặc cho Đăm Săn khinh bỉ, mặc cho mình múa khiên không đẹp (múa “kêu lạch xạch như quả mướp khô”), tốc độ lại chậm chạp, nặng nề (“bước cao bước thấp”) nhưng Mtao Mxây không nản lòng. Y rắp tâm chờ cơ hội. Và khi cơ hội đến, hành động của Mtao Mxây nhanh hơn một chớp mắt: đâm lén Đăm Săn. Khi Mtao Mxây “chém phập một cái”, chắc chắn Đăm Săn không khỏi giật mình. May cho Đăm Săn là nhát chém quá nhanh và không ngờ ấy của địch lợi hại “chỉ vừa trúng một cái chão cột trâu”.

Hai trợ thủ cuối cùng của Mtao Mxây là miếng trầu của Hơ Nhị và cái áo giáp che thân. Đăm Săn chỉ vô hiệu hóa được con bài thứ nhất, đến con bài thứ hai thì Đăm Săn đã bất lực hoàn toàn. Đùi Mtao Mxây bị đâm trúng nhưng không thủng, người Mtao Mxây cũng thế. Nếu không có sự giúp sức của Ông Trời thì Đăm Săn chắc chắn sẽ trắng tay, cả danh dự và quyền uy vì chàng sẽ là người bại trận.

Nhìn chung cách khắc họa nhân vật (cả Mtao Mxây và Đăm Săn) của đoạn trích là kết hợp hai yếu tố: đối thoại giữa các nhân vật và lời người dẫn chuyện. Riêng với nhân vật Đăm Săn, tác giả cuốn truyện còn thực hiện phép đối xứng nghệ thuật nữa. Bằng cách ấy, nhân vật Đăm Săn xuất hiện như một điểm nhấn rực rỡ, sáng ngời.

Trước hết, chàng là người cương trực, thẳng thắn, không đê tiện, nhỏ nhen. Bởi vậy khi chạm vào những ý nghĩa hèn hạ, mờ ám của Mtao Mxây, Đăm Săn như người đụng phải lửa. Hai lần Mtao Mxây cất tiếng (“không được đàm ta khi ta đang đi xuống”) là hai lần Đăm Săn như thấy lòng tự trọng bị tổn thương. Qua đối thoại của chàng, ta cảm nhận được sự khinh khi, tức giận: “Ngươi xem, đến con lợn nái của nhà ngươi dưới đất, ta cũng không thèm đâm nữa là!”. Và đối lập với những ý nghĩ vẩn đục của Mtao Mxây, tâm hồn của Đăm Săn thật là trong sáng.

Mặc dù đến nhà Mtao Mxây để gây chiến vì Đăm Săn có lý do khiêu chiến, nhưng chàng không vội ra tay. Phải bình tĩnh đến mức nào đó để không làm cho cơn giận bùng lên, Đăm Săn mới nhường cho Mtao Mxây múa khiên trước. Chỉ thực sự gai mắt khi chứng kiến lời nói của đối thủ, khoác lác huênh hoang mà thực tài kém cỏi, Đăm Săn mới thực sự rung khiên.

Tài nghệ phi thường của Đăm Săn được chứng thực trong cuộc múa khiên hùng tráng. Có đến hai dụng ý nghệ thuật của tác phẩm sử thi mà người kể khan đã dùng đắc địa. Thứ nhất là biện pháp đối lập hai chiều (giữa cảnh Mtao Mxây múa gươm trước với cái cách múa khiên đầy tốc độ của Đăm Săn “Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô” là những đường gươm chậm chạp, nặng nề của Mtao Mxây: “bước cao bước thấp chạy hết bãi tây sang bãi đông”. Thứ hai là vai trò của người dẫn truyện. Trong đợt múa khiên tiếp theo, đối xứng nghệ thuật đã không còn. Thay vào đó là lời thuyết minh của người chứng kiến. Trong lần múa khiên này, võ nghệ của Đăm Săn không còn là tốc độ mà chuyển sang cường độ. Nếu tốc độ múa khiên của chàng cứ thấy “vun vút” (“vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”) thì cường độ múa khiên của chàng lại là một trận bão lớn. Chỉ còn lại một hào hứng, một tung hô đầy kinh ngạc: “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lãn lóc. Cầy cối chết rụi. Khi chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Khi chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung…”. Thủ pháp cường điệu khoa trương thật thích hợp trong văn cảnh này. Nó làm đậm lên một sức mạnh, một năng lực phi phàm chỉ những người xuất chúng như Đăm Săn mới có. Như thế là kịch tính đã phát triển tới tốc độ, tính hàm súc, lắng đọng cũng đạt đến độ cao.

Nhưng sự cường điệu khoa trương không bao giờ là vô hạn. Sức mạnh của Đăm Săn quả là có giới hạn. Nó biết dừng lại ở sự có lý ngay cả trong tư duy có yếu tố thần thoại của tác phẩm sử thi. Trong trường hợp ấy cần có thần linh trợ giúp. Ông trời, ông bụt hiện lên đúng lúc từ những giấc mơ. Trời, bụt giúp người hoạn nạn. Trời, bụt cũng giúp cho những khát vọng lớn của con người. Nhân vật ông trời ở đây đứng về phía Đăm Săn, phát hiện cho chàng cái “gót chân A-sin” của địch thủ. Chỉ tới lúc đó, Mtao Mxây mới không còn một thành lũy nào ẩn nấp. Khi cái áo giáp của Mtao Mxây rơi xuống, hắn mới hiện nguyên hình là một kẻ yếu đuối biết bao! Hình ảnh cái chuồng lợn, chuồng trâu bẩn thỉu đã xuất hiện ở đầu đoạn văn, nay được lặp lại với một ý vị mỉa mai trên một tinh thần khác. Ở lần thứ nhất nó liên quan đến nhân cách của Mtao Mxây thì lần thứ hai nó lại liên quan đến sức mạnh của một kẻ không còn gì đáng sợ nữa.

Nếu cuộc chiến giữa Đăm Săn với Mtao Mxây khắc họa một phương diện của Đăm Săn, phương diện con người cá nhân thì cảnh trở về và lễ ăn mừng chiến thắng lại mở ra một góc khác của con người anh hùng đó: con người cộng đồng, con người xã hội.

Vốn là một tù trưởng giàu mạnh, Đám Săn có trách nhiệm với bộ tộc đã đành. Chính vì danh dự của Đăm Săn bị xúc phạm (Mtao Mxây cướp vợ của Đăm Săn) cũng là danh dự của bộ tộc bị xúc phạm mà chàng đã dấy binh. Chiến thắng kẻ thù rồi, danh dự được bảo vệ rồi, trách nhiệm của Đăm Săn tăng lên gấp đôi. Có trách nhiệm với tôi tớ, dân làng của mình, chàng có nghĩa vụ che chở cho tôi tớ, dân làng của Mtao Mxây nữa. Sự mở rộng địa bàn ở đây không có nghĩa thôn tính một cách áp đặt, giản đơn. Nó dựa trên nguyên tắc tự nguyện và người thủ lĩnh mới không hề có định kiến mà ngược lại hết sức bình đẳng, chân tình. Không một hiệu lệnh nào thúc ép, không một lời nói nào cao giọng răn đe. Đăm Săn đã gõ cửa từng nhà. Biện pháp nghệ thuật ở đây là hình thức tiếng vang. Một câu nói của Đăm Săn truyền đi, một câu trả lời vọng lại để rồi một câu hỏi từ đó lại lan xa từ nhà này qua nhà khác. Câu hỏi thứ nhất (của Đăm Săn): “Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói! ơ tất cả tôi tớ bằng này! Các ngươi có đi với ta không?”. Câu trả lời thứ nhất (của dân làng): “Không đi sao được! Tù trưởng chúng tôi đã chết, lúa chúng tôi đã mục, chúng tôi còn ở với ai?”... Câu hỏi thứ hai (của Đăm Săn): “Ơ tất cả dân làng này, các ngươi có đi với ta không? Tù trưởng các ngươi đã chết, lúa các ngươi đã mục. Ai đi chăn ngựa hãy đi bắt ngựa! Ai giữ voi hãy đi bắt voi! Ai giữ trâu hãy đi lùa trâu về!”. Cứ như thế một cuộc chạy tiếp diễn ra tạo nên sự kết tinh, hòa đồng gắn bó hai bộ tộc của Đăm Săn và Mtao Mxây làm một.

Lễ mừng chiến thắng do đó không chỉ đóng khung trong nghĩa hẹp là trừng trị một kẻ ác (Mtao Mxây) đã thành công. Nó mang một ý nghĩa kép: vừa chiến thắng kẻ thù vừa nhân lên gấp đôi sức mạnh của bộ tộc. Bởi vậy, âm hưởng của bản anh hùng ca mới ngát trời hào hứng: rộn rã âm thanh của các loại chiêng có tiếng đồng tiếng bạc cùng với vòng nhạc rung lên làm cho tất cả mọi giống loài phải im tiếng để nhường chỗ cho một sự kiện trang nghiêm chưa từng có bao giờ. Và rồi sau cái phút nín lặng âm thanh ấy, một bản hòa ca còn hùng tráng hơn bởi có sự tham gia của “Lươn trong hang, giun trong bùn, rắn hổ, rắn mang đều chui lên nằm trên cao sưởi nắng”. Ếch nhái cũng hoan hỷ, vui mừng, cùng kỳ nhông ngoài bãi “kêu rên inh ỏi suốt ngày đêm”. Không gian cứ mở rộng ra đến cùng trời cuối đất. Không gian của niềm vui và không gian của danh tiếng Đăm Săn: “Nhà Đăm Săn đông nghịt khách... Các khách tù trưởng đều từ phương xa đến”. Lại nữa: “Danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nghe danh tiếng Đăm Săn”.

Trong bối cảnh nhộn nhịp tưng bừng ấy, hình tượng Đăm Săn hiện lên như một vị thần: oai phong về ngoại hình và đầy sức sống tiền tàng nội lực. Lúc Đăm Săn nằm trên võng nghỉ ngơi “Tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa”. Còn khi xuất hiện trước đám đông thì rực rỡ với “Ngực quấn chéo một tấm mên chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre”. Đăm Săn, trong con mắt của tôi tớ, dân làng, khách khứa là một sức mạnh vô địch, “một trang tù trưởng mới giàu lên, đang tràn đầy sức trai, tiếng tăm lừng lẫy”.

Về nghệ thuật kể chuyện trong đoạn văn có những đặc điểm nổi bật như kể chuyện kết hợp với miêu tả tạo nên hứng thú của cảm giác liền mạch nhưng lại có điểm dừng, vừa bao quát vừa đi sâu vào từng chi tiết. Ở đây còn một sự kết hợp thứ hai giữa câu chuyện được kể và người kể nhằm cá thể hóa vai trò chủ quan vừa tạo không khí đang diễn ra vừa gây được sự đồng cảm của những người nghe trong hình thức diễn xướng. Riêng ngôn ngữ sử thi thì đoạn văn là một ví dụ điển hình. Ngôn ngữ ấy vừa giàu chất hội họa (thông qua hình ảnh) vừa giàu chất âm nhạc (thông qua nhịp điệu). Hình ảnh thì có khi là tả thực, có khi là phóng đại, cường điệu, khoa trương. Riêng về âm nhạc thì tuy đoạn văn được kể dưới hình thức văn xuôi nhưng rất gần với thơ ở nhịp điệu, tiết tấu cân xứng, hài hòa, du dương trầm bổng. Để chứng minh những điều nhận định trên đây không khó. Có điều chắc chắn là với cách kể ấy, với ngôn ngữ ấy, ta được lắng nghe một thứ phối hợp của nhiều thể loại, một thứ hòa thanh của nhiều nhạc cụ, làm thức dậy nhiều giác quan. Sức hấp dẫn của nó là không thể nào cưỡng nổi. Đó là dấu hiệu của một tác phẩm sử thi đạt tới đỉnh cao trong sự sáng tạo tuyệt vời.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×