Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nhập vai Trương Sinh kể lại đoạn truyện từ khi Trương Sinh đi lính trở về cho đến hết, trong câu chuyện chú ý sử dụng miêu tả nội tâm trực tiếp, miêu tả nội tâm gián tiếp

nhập vai Trương Sinh kể lại đoạn truyện từ khi Trương Sinh đi lính trở về cho đến hết, trong câu chuyện chú ý sử dụng miêu tả nội tâm trực tiếp , miêu tả nội tâm gián tiếp

7 trả lời
Hỏi chi tiết
478
1
0
Phonggg
23/10/2020 21:46:28
+5đ tặng

 Thời gian xa nhà (Được nghe những người hàng xóm kể lại)

- Tôi đi được một tuần thì vợ sinh con trai đặt tên là Đản

- Mẹ tôi ở nhà vì quá thương nhớ tôi nên sinh bệnh

- Vợ tôi ở nhà chăm nom mẹ tôi ân cần, chu đáo, ai ai cũng phải công nhận sự hiền thảo đó

- Khi mẹ mất, vợ tôi khóc thương và lo liệu cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp.

- Tôi thầm tự hào và biết ơn vợ, tự nhủ với lòng sẽ yêu thương và trân trọng nàng suốt đời

3. Trương Sinh trở về và nghi oan cho vợ.

- Ba năm sau tôi trở về, trước sự ra đi của mẹ tôi đau đớn, xót xa vô cùng.

- Tôi định bế con trai ra mộ để cùng thắp nén hương cho mẹ, nhưng nó khóc lóc, không chịu nhận tôi, nói cha nó chỉ nín thin thít, đêm nào cũng đến

- Tính tôi đa nghi lại vội vàng nên vô cùng giận giữ, không để cho vợ thanh minh mà ngay lập tức đuổi đi.

4. Vũ Nương thanh minh, được giải oan và sự hối hận của chàng Trương.

- Trước cơn thịnh nộ của tôi, Vũ Nương hết lời giải thích, thanh minh, nàng hỏi tôi chuyện kia nhưng tôi cố tình không nói, tôi vẫn mắng nhiếc thậm tệ và đuổi đi mặc cho hàng xóm can ngăn

- Sau đó, vợ tôi tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang tự tử để chứng minh lòng thành. Dù vẫn còn rất giận nhưng biết tin nàng tự tử tôi cũng động lòng thương, vớt xác lên nhưng không thấy.

- Một đêm, nằm cùng bé Đản, bé chỉ tay lên chiếc bóng trên vách tường và nói đó là cha mình. Tôi bàng hoàng nhận ra nỗi oan tày đình của vợ. Tôi đau đớn, dằn vặt tự trách mình.

- Cạnh bến sông có người tên Phan Lang, vì được Linh phi dưới thủy cung đền ơn cứu mạng nên đã được cứu vớt trong một lần chạy giặc Minh.

- Ở dưới thủy cung, ông ta gặp lại vợ tôi. Nàng đã nhờ Phan Lang chuyển lời và chuyển kỉ vật đến tôi. Ban đầu không tin nhưng khi nhìn thấy vật cũ của vợ mới hốt hoảng tin theo.

- Hôm sau, tôi nghe theo lời dặn, lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện về đẹp lung linh. Tôi xúc động, nghẹn ngào gọi vợ, nàng chỉ thấp thoáng giữa nói vọng vào lời từ biệt tôi.

- Tôi đau đớn, ân hận, giày vò, vì những cơn ghen mù quáng của mình.

III. Kết bài

- Trương Sinh tự rút ra cho mình bài học: Vợ chồng phải biết yêu thương tôn trọng và đặt niềm tin ở nhau mới có hạnh phúc bền lâu

- Trương Sinh tự hứa với lòng sẽ ở vậy, chăm con thật tốt, bù đắp sai lầ

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Phonggg
23/10/2020 21:47:43
+4đ tặng

Ở nơi chinh chiến, tôi không nguôi nhớ về ngôi nhà đơn sơ với mẹ già và người vợ trẻ. Mãi rồi cuộc chiến cũng chấm dứt, tôi được trở về quê. Vừa đặt chân đến nhà thì hay tin mẹ già đã mất, tôi vô cùng đau xót, tiếc thương. Đứa con trai – tên Đản – lúc ấy đã biết nói. Cảnh nhà heo hút, sầu thảm. Tôi bế con ra thăm mộ mẹ. Đứa con chưa bén hơi cha cứ quấy khóc hoài. Tôi cố gắng dỗ con:

– Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.

Đản ngây thơ hỏi lại tôi:

– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói? Chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.

Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nghe con nói thế, liền gạn hỏi thằng bé, đứa con nói:

– Trước đây có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.

Nghe lời con trẻ, tôi vừa đau lòng vừa tức giận. Vậy ra vợ tôi là người đàn bà hư hỏng, trong lúc chồng đi chiến trường thì ở nhà lăng loàn với người đàn ông khác. Thế mà, ở nơi bom rơi đạn lạc, tôi đã quên cả mình để không ngừng nhớ tới nàng, mong ngày mong đêm để được về đoàn tụ với nàng.

Về đến nhà, tôi la um lên cho hả giận. Vợ tôi đã hết lời thanh minh, hàng xóm đã hết lời khuyên giải, nhưng mặc, tôi đuổi Vũ Nương đi. Biết tôi không tin vào sự thật, nàng đau đớn ôm con lần cuối cùng rồi ra khỏi nhà.

Chiều muộn hôm đó, tôi nghe tin nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Tuy vẫn giận nhưng tôi cũng mang lưới ra để vớt xác nàng nhưng vớt mãi suốt đêm cũng chẳng thấy đâu.

Một đêm vắng vẻ, tôi ngồi ôm con bên ngọn đèn mới thắp, lòng buồn rầu nghĩ đến Vũ Nương. Bỗng thằng bé reo lên:

– Cha Đản lại đến kia kìa!

Tôi vội hỏi đâu thì nó chỉ vào cái bóng của tôi trên tấm vách. Tôi chợt hiểu ra mọi chuyện. Trời ơi! Chính tôi đã giết vợ mình. Vợ tôi đã chết oan uổng vì sự hồ đồ, đa nghi, cả ghen, ích kỉ,… của chính tôi. Tôi hối hận quá. Nhưng muộn mất rồi. Chính tôi đã làm tôi mất vợ, làm bé Đản mất mẹ. Tôi ân hận quá nhưng muộn mất rồi, muộn mất rồi…

1
0
Phonggg
23/10/2020 21:48:07
+3đ tặng

Đến ngày tôi đi, mẹ tôi nuốt nước mắt mà dặn rằng:

- Nay con phải ra đi vì việc quân việc nước, mẹ biết rằng đây là thời cơ để con tạo dựng nên sự nghiệp, công danh cho mình. Thế nhưng, ngoài chiến trường, binh đao khó biết, con hãy biết giữ mình cẩn thận. Đừng vì tham công danh, lợi ích mà mắc lừa quân địch. Mẹ chẳng mong con về mang được tiếng thơm, chỉ mong sao con trai mẹ trở về trong bình an là được. Con hãy nghe lời mẹ dặn thì mẹ ở nhà mới yên lòng được.

Tôi nghe lời mẹ dặn hết sức kính cẩn, quỳ xuống đất, dập đầu mà vâng lời mẹ. Còn Vũ Nương – vợ tôi, nàng buồn rầu rót chén rượu đầy tràn rồi dặn tôi rằng:

- Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm, vang danh trở về quê cũ, chỉ xin ngày về, chàng mang theo được hai chữ bình yên trở lại, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trong mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn vàn thư tín, chỉ e không một tin về. Chàng ở nơi xa xôi, còn mình thiếp ôm nỗi quan hoài, thương nhớ!

Vũ Nương nói xong mà nước mắt đã chảy tràn, khiến tôi và mọi người không khỏi xúc động. Vợ tôi vẫn luôn hiền dịu như thế, chu đáo như thế, lúc ấy, tôi chỉ mong rằng mấy năm ròng xa cách, nàng hãy giữ trọn một đạo với chồng là được. Lạy mẹ già thêm một lạy, ta vội xách tư trang quay gót, tới chỗ tập hợp binh lính sung quân.

Miền biên ải xa xôi, đêm ngày hành quân vất vả. Ba năm ròng rã đánh giặc Chiêm Thành, vào sinh ra tử đã không ít lần, cuối cùng quân giặc ngoan cố cũng đã chịu đầu hàng. Ba năm ròng, cuối cùng tôi cũng được trở về nhà.

Thế nhưng, niềm vui ngắn chẳng tày gang. Về tới nhà, tôi nhận được tin rằng, mẹ tôi vì mong ngóng tin con trai nơi biên ải, đã lâm bệnh mà qua đời, còn tôi thì có thêm một đứa con trai tên là Đản. Mẹ mất, trong lòng tôi buồn vô hạn, cũng may còn có đứa con trai này khiến tôi có chút niềm vui trong lòng. Còn vợ tôi, Vũ Nương, nàng vẫn vậy, vẫn luôn ân cần, nhẹ nhàng và chu đáo như thế, mọi việc trong nhà từ khi tôi đi, mẹ mất, nàng một mình quán xuyến tất thảy. Ngày tôi trở về, nàng vui mừng vô cùng, vợ chồng con cái lại được quây quần sum họp hưởng hạnh phúc.

Hôm sau, tôi dẫn con trai ra ngoài thăm mộ người mẹ già, thế nhưng, thằng bé nhất định không chịu theo tôi còn gào khóc om sòm. Tôi mới dỗ dành nó rằng:

- Con nín đi, đừng khóc nữa mà cha buồn lòng! Cha rời xa bà ba năm, nay trở về mà bà đã mất, thật trớ trêu thay!

Đứa con tôi mới ngây ngô nhìn tôi rồi hỏi:

- Ô hay, ông cũng là cha của tôi sao? Ông biết nói thật lạ quá chứ cha tôi trước kia chẳng nói gì cả bao giờ!

Ô, sao có chuyện lạ đời, tôi đi lính đã ba năm nay, năm nay mới trở về, mới được gặp con trai, sao nó lại nói đã từng có cha trước kia, việc này là như thế nào? Tôi mới gặng hỏi đứa con:

- Cha trước kia là ai? Sao lại đến mà không nói gì?

Câu trả lời của đứa con làm tôi lặng người đi:

- Trước đây, ông chưa về, đêm nào cha tôi cũng đến ngồi cùng mẹ tôi, mẹ làm gì cũng làm theo, mẹ ngồi cũng ngồi, đi cũng đi, nhưng chẳng bao giờ bế tôi cả!

Một người đàn ông đêm nào cũng đến ư? Trời ơi, một người phụ nữ có chồng ở nhà chồng một mình vậy mà còn dẫn đàn ông đến ở qua đêm ư? Phải chăng Vũ Nương kia đã làm gì có lỗi với Trương Sinh tôi, phải chăng nàng ta đã phản bội tôi mà thất tiết với ai rồi? Ba năm chờ chồng mà lại qua lại với người đàn ông khác, sao còn xứng với tôi đây?

Về tới nhà, tôi mắng vợ một trận thật lớn để hả giận. Tôi mắng nàng ta là người phụ nữ hư thân mất nết, không biết xấu hổ, chồng đi chinh chiến ba năm lại chẳng biết giữ trọn đạo làm vợ. Vũ Nương lúc đầu ngạc nhiên, nàng trân mắt nhìn tôi đăm đăm, rồi nàng khóc mà rằng:

- Thiếp vốn con nhà nghèo, may mắn được gả cho chàng, vào Trương gia cùng chàng lập nên ơn nghĩa vợ chồng. Chia xa khi vừa lập gia thất được nửa năm, xa chàng, thật lòng thiếp vô cùng buồn tủi! Ba năm chàng rời xa, tưởng lòng đã lạnh, chưa một lần thiếp dám nghĩ tới người nào khác, ngõ liễu tường hoa chưa bao giờ ngó ngàng. Thiếp đã giữ trọn đạo vợ chồng với chàng, mong rằng chàng hãy soi tỏ, đừng vội tin lời người ngoài mà nghi oan cho thiếp!

Thế nhưng, những lời nói ấy của nàng khi ấy, tôi chẳng tin lấy nửa lời. Trong lòng tôi chỉ còn sự giận dữ vì bị phản bội, chỉ một mực nghi kị nàng đã làm việc có lỗi với tôi. Tôi chưa từng kể với nàng, tôi nghe con trai nói, mặc dù nàng gặng hỏi, tôi cũng chưa từng để tâm những lời nói thanh mình của nàng. Nếu khi ấy, tôi không ghen tuông mù quáng mà biết lắng nghe Vũ Nương, lắng nghe những lời giải thích của nàng, chịu nghe những lời khuyên ngăn của hàng xóm thì tôi đã chẳng phải chịu cảnh chăn lìa gối chiếc với nàng bao năm qua.

Lúc ấy, tôi chỉ một mực cho rằng nàng thất tiết, mỗi ngày đều dùng lời tệ bạc mà mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Vào ngày thứ bảy sau chuyện đó, Vũ Nương vừa khóc vừa nói với tôi rằng:

- Thiếp nương tựa vào chàng vì niềm vui gia đình, vì con trai của chúng ta, chưa bao giờ có ý nghĩ rời xa gia đình này. Đâu thể ngờ, chàng rời đi ba năm, trở về lại vì một lời của kẻ khác mà nghi oan cho rằng thiếp ở nhà không giữ trọn đạo vợ chồng. Nay sự đã đến nước này, thiếp cũng không thể trần tình, thanh minh với chàng được nữa. Thiếp đâu có thể còn dám ngước nhìn lên núi Vọng Phu cao vời vợi kia nữa!

Thế nhưng, những lời ấy đâu lọt vào tai tôi nửa chữ, tôi chỉ một mực chì chiết, nghi kị nàng. Nói xong, nàng đứng dậy, tắm rửa thay quần áo rồi ra đi. Lúc đó, tôi cứ tưởng, nàng thẹn với chồng con, với làng xóm nên ra đi, ai ngờ đâu, nàng lại ra sông mà gieo mình xuống, chỉ để chứng tỏ lòng trung trinh của mình.

Nghĩ lại đến đây, tôi thật vô cùng ân hận, chỉ vì sự nghi ngờ vô cớ của mình mà đã đẩy người con gái dịu dàng, xinh đẹp như vợ tôi vào chốn đường cùng. Lúc nghe tin nàng gieo mình xuống sông, tôi tuy còn giận ở trong lòng nhưng nghĩ lại ơn nghĩa vợ chồng, tìm người vớt thây nàng, thế nhưng chẳng thấy đâu cả. Lòng ôm sầu hận, tôi chẳng thể nào ngủ được. Một buổi tối, khi đang ngồi cùng con trai bên chiếc đèn khuya hiu hắt thì bất chợt con trai tôi reo lên rằng:

- Cha Đản lại đến rồi!

Tôi bất ngờ ngẩng đầu nhìn tứ phía, nhưng chẳng thấy tăm hơi một người nào, tưởng con chơi trò nói đùa, mới gặng hỏi con ở đâu. Nó mới nhanh chân chạy lại bức vách rồi trỏ vào cái bóng của tôi in trên vách mà bảo:

- Đây này!

Tôi như chết lặng đi, giờ thì tôi đã hiểu mọi cơ sự rồi. Chắc hẳn vợ của tôi đã nói với con rằng cái bóng trên vách là cha của nó. Tôi đã thật ngu ngốc khi không nói rõ ràng với vợ của mình, để giờ đây, dù ân hận, tôi cũng chẳng thể làm gì được nữa. Vũ Nương của tôi đã chẳng thể trở về bên cạnh tôi được nữa rồi!

Ngày tháng cứ trôi qua chậm rãi, nỗi ân hận vì đánh mất người vợ hiền cứ day dứt trong lòng tôi. Cho tới một hôm, có người tự xưng là Phan Lang, tới tìm gặp tôi. Tôi lạ lùng bởi tôi không hề biết người này. Thế nhưng, người tên Phan Lang ấy đem đến cho tôi một tin còn đáng giật mình hơn nữa: vợ tôi còn sống.

Ban đầu, tôi không tin, chỉ coi đó là trò đùa của anh ta. Thế nhưng khi anh ta đưa chiếc thoa vàng rồi kể câu chuyện lưu lạc dưới thủy cung của vua Nam Hải, gặp lại vợ tôi, cùng nàng hàn huyên rồi được nhờ là đưa cho tôi chiếc thoa này, bấy giờ tôi mới tin là sự thật. Phan Lang còn dặn rằng, Vũ Nương muốn nhờ tôi lập một đàn tràng giải oan ở bến Hoàng Giang – nơi vợ tôi gieo mình xuống thì nàng sẽ trở về. Tôi vô cùng kinh sợ, bán tín bán nghi, thế nhưng, nếu Vũ Nương – vợ tôi được trở về thì thế nào, tôi cũng bằng lòng.

Vậy là tôi bèn theo lời nàng, lập một đàn tràng ở bến Hoàng Giang ba ngày ba đêm ròng rã, vậy nhưng vẫn chưa thấy Vũ Nương xuất hiện. Đến ngày thứ tư, lúc tôi tưởng chừng hi vọng đã dần cạn kiệt thì quả nhiên thấy một chiếc kiệu hoa rực rỡ xuất hiện giữa dòng nước mênh mông. Theo sau kiệu lớn là hơn năm mươi chiếc xưa, với cờ tàn tán lọng, cả một khúc sông bỗng rực rỡ, chói lóa, huyền ảo. Rồi từ trong kiệu hoa, Vũ Nương bước ra, mặc trên mình bộ y phục lấp lánh, tôi hoa mắt chờ đợi, khi xưa nàng đã vô cùng xinh đẹp, khoác lên bộ y phục này thì càng xinh đẹp hơn gấp bội phần. Thế nhưng, khi tôi vội vàng cất tiếng gọi thì nàng không từ từ tiến lại bờ mà chỉ đứng giữa dòng mà nói vọng vào với tôi:

- Đa tạ chàng đã giúp thiếp thực hiện nguyện ước của mình. Nhưng nay mây tan gió tạnh, thiếp đã thề nguyện ở lại cùng sống chết để cảm tạ ơn nghĩa của Đức Linh Phi. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian sum họp cùng chàng được nữa! Mong chàng hãy nuôi nấng, chăm sóc bé Đản nên người, vậy là thiếp mãn nguyện rồi. Thiếp đa tạ chàng!

Nói xong, nàng vén kiệu mà bước vào, cả kiệu hoa và đoàn xe cứ thoắt ẩn thoắt hiện rồi loang loáng mờ dần, biến mất vào trong hư không. Tôi vội vã gọi tên nàng, thế nhưng, chẳng có ai đáp lại lời tôi nữa, Vũ Nương đã thực sự biến mất rồi. Tôi thất thểu bước về nhà, trong lòng ôm đầy nỗi ân hận. Chính tôi là người đã đẩy nàng vào bước đường cùng, giờ đây, chẳng có gì có thể cứu vãn được sự việc nữa. Mọi việc thực sự đã kết thúc rồi.

Giờ đây, hơn hai mươi năm sau khi sự việc đã xảy ra, tôi vẫn ôm trong mình nỗi ân hận vô vàn. Dù sau này, tôi đã dần sửa đổi tâm tình mong có thể vơi bớt nỗi lòng, thế nhưng, hình bóng của Vũ Nương vẫn luôn luôn hiện ra trong tâm trí tôi. Có lúc tôi mong được trở lại là Trương Sinh của hai mươi năm trước để có thể nói một lời xin lỗi với người vợ thân yêu của mình. Thế nhưng, mọi chuyện đã lỡ, chẳng có gì có thể thay đổi được nữa. Con trai tôi đã lớn khôn, thành người, chuẩn bị thành gia lập thất, tôi đã nuôi dạy nó bằng cả tình yêu với Vũ Nương. Hi vọng nàng ở dưới chốn thủy cung cũng luôn dõi theo cha con tôi mỗi ngày và vui mừng vì điều đó.

1
0
Phonggg
23/10/2020 21:48:22
+2đ tặng

Ngày đưa tiễn tôi lên đường cả mẹ và nàng đều khóc hết nước mắt, không cầu tôi dành công danh, chỉ cần có thể mạnh khỏe, bình an trở về. Những ngày tháng ở chiến trường tôi nhớ gia đình tha thiết, nhớ mẹ già ở nhà mong ngóng, nhờ người vợ hiền thục. Tôi chỉ mong chiến tranh nhanh chóng kết thúc để được trở về đoàn tụ bên gia đình.

Thời gian nhanh chóng qua đi, chiến tranh kết thúc, tôi về nhà lòng đầy hứng khởi, mong nhớ. Nhưng ngày tôi về thì mới hay tin, mẹ vì thương nhớ tôi quá nhiều mà sinh bệnh nên đã mất. Tôi bế đứa con nhỏ hơn một tuổi ra thăm mộ mẹ, nhưng bé Đản khóc lớn, không chịu đi cùng tôi, tôi dỗ dành:

- Nín đi con, đừng khóc! Bà mất lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!

Con tôi ngạc nhiên nói:

- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không giống như cha trước kia chỉ nín thin thít.

Tôi ngạc nhiên, sững sờ, tim bỗng nhói đau, máu ghen trong người nổi lên, tôi hỏi dồn thằng bé về người đàn ông đó. Thằng bé lại hồn nhiên đáp lại:

- Đêm nào cũng có một người đến, mẹ ngồi người đó cũng ngồi, mẹ đi người đó cũng đi, nhưng người đó không bao giờ bế Đản cả.

Đến giờ tôi không còn đủ bình tĩnh nữa, tôi đi lính lâu ngày, vợ tôi thảo hiền, nết na chỉ là cái vỏ bề ngoài. Tôi đi lính đã lập tức thất tiết với tôi. Tôi nổi giận đùng đùng, về nhà đánh đuổi vợ tôi đi. Nàng tha thiết van xin:

- Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.

Nhưng những lời nàng đối với tối lúc đó chỉ là gian dối, ngụy biện, tôi gạt phát đi và dùng những lời lẽ đay nghiến, trì triết để đuổi nàng đi. Giá lúc ấy tôi bình tĩnh hơn, nói rõ nguyên do cho nàng giải thích thì gia đình tôi đã không phải chịu cảnh li tán như ngày hôm nay.

Uất ức vì không được giãi bày, Vũ Nương đã tắm gội chay sạch và tìm đến bến sông Hoàng Giang để tự vẫn nhằm minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết rõ sự tình nhưng biết vợ tự vẫn cũng hết sức đau lòng, tôi ra bến sông để vớt xác nhằm chôn cất nàng chu đáo nhưng không tài nào tìm thấy, tôi và con đành trở về nhà.

Cuộc sống một mình gà trống nuôi con quả chẳng dễ dàng, đêm ấy tôi thắp đèn bỗng bé Đản reo lớn:

- Cha Đản lại đến kìa. Chính là người cha vẫn đến cùng mẹ đó.

Bấy giờ tôi mới biết mình đã nghi oan cho vợ. Trong những ngày xa tôi, vì thương nhớ và cũng muốn bù đắp cho con, để bé Đản được nhận tình yêu đủ đầy của cha và mẹ mà nàng đã trỏ bóng mình bảo cha Đản. Tôi lại ghen tuông mù quáng, nghe lời đứa trẻ ngây thơ, không tìm hiểu rõ nguồn cơn nên đã gây nên cái chết oan nghiệt cho nàng. Tôi ân hận lắm.

Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua. Bỗng một hôm Phan Lang người cùng làng tôi mang chiếc hoa mà ngày xưa vợ vẫn hay dùng đến và nói lời Vũ Nương nhắn gửi, bảo tôi lập đàn giải oan trên sông, đốt cây đang chiếu xuống nước để Vũ Nương trở về. Tôi nghe xong bán tín bán nghi, nhưng nhìn chiếc hoa đúng là của vợ tôi thật. Tôi đành lập một đàn giải oan trên sông, Vũ Nương trở về thật, nhìn thấy tôi nàng đã nói:

- Thiếp cảm tạ tấm lòng chàng, ơn đức Linh Phi cứu mạng thiếp đã hứa sẽ ở đó cùng Linh Phi, sông chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về nhân gian được nữa.

Tôi còn chưa kịp nói lời xin lỗi nàng, Vũ Nương đã biến mất.

Khi thấy nàng trở về mà không một lời trách cứ, oán thán càng làm tôi đau đớn, day dứt hơn. Chỉ một phút nóng nảy, chỉ vì tính ghen tuông tôi đã cướp đi tình yêu thương của mẹ mà bé Đản vốn được hưởng, và tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình, mất người vợ thảo hiền, dịu dàng. Cả đời này tôi sẽ sống trong day dứt, đau khổ, và mãi mãi không quên nàng…

1
0
Phonggg
23/10/2020 21:48:50
+1đ tặng

Vào ngày tòng quân, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:

- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.

Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:

– Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An , nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về.

Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở.

Ở chiến trường hơn một năm trời, may mắn được trở về đoàn tụ với gia đình. Nhưng sét đánh ngang tai, mẹ tôi vì quá nhớ thương con mà ốm đau biền biệt, cuối cùng cụ đã qua đời. Tôi đau xót biết bao, định bế con trai - bé Đản mới hơn một tuổi ra thăm mộ. Nhưng con từ lúc đẻ chưa gặp mặt, xa lạ nằng nặc không chịu đi. Dọc đường, bé Đản khóc, tôi dỗ: “Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là người trước đây đêm nào cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dưới chân tôi như sụp xuống.

Tôi cứ bần thần nghĩ ngợi, Vũ Nương là một người vợ ngoan hiền, đức hạnh, chẳng lẽ hơn một năm xa cách, nàng lại trở nên hư hỏng như vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nương. Ghen tuông mù quáng khiến tôi bùng lên, không có cách gì dập tắt được. Về đến nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nương bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa khóc vừa thanh minh : “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp…”.

Nhưng bao nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu được mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thương nàng tần tạo, chăm sóc mẹ chồng con thơ chu đáo, ma chay cho mẹ làm tương tự thân sinh của chính mình nên ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng. Nhưng tôi không nghe ai hết. Lúc đó tôi chẳng quan tâm lời ai nói, tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy đã không thể thuyết phục được tôi, Vũ Nương bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng :

– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.

Tôi đã không biết, nàng lại đi tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo mình xuống sông tự vẫn.

Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nương mà còn làm khổ tôi, dằn vặt tôi không phút nào yên. Tuy giận Vũ Nương thất tiết nhưng khi nàng tự vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt: “Cha Đản lại đến kia kìa!”, rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách: “Đây này!”. Tôi ngỡ ngàng và hiểu ra tất cả. Thì ra, ngày thường lúc tôi vắng nhà, Vũ Nương hay trỏ bóng mình trên tường đùa con và báo đó là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan động trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi, không làm sao thay đổi được nữa…

Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn như tôi. Hãy tin yêu con người, thực lòng yêu thương người thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn.

2
0
Phonggg
23/10/2020 21:49:37

Ba năm chiến tranh qua đi, tôi về nhà lòng đầy hứng khởi, mong nhớ. Nhưng ngày tôi về lại ấp xuống biết bao tai họa. Mẹ tôi vì thương nhớ tôi quá nhiều mà sinh bệnh nên đã mất. Tôi bế đứa con nhỏ hơn một tuổi ra thăm mộ mẹ, nhưng bé Đản khóc lớn, không chịu đi cùng tôi, tôi dỗ dành:

Nín đi con, đừng khóc! lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!

Con tôi nói:

Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không giống như cha trước kia chỉ nín thin thít.

Tôi ngạc nhiên, sững sờ, tim bỗng nhói đau, máu ghen trong người nổi lên, tôi hỏi dồn thằng bé về người đàn ông đó. Thằng bé hồn nhiên đáp lại:

- Đêm nào cũng có một người đến, mẹ ngồi người đó cũng ngồi, mẹ đi người đó cũng đi, nhưng người đó không bao giờ bế Đản cả.

Đến giờ tôi không còn đủ bình tĩnh nữa, vợ tôi thảo hiền, nết na chỉ là cái vỏ bề ngoài. Tôi đi lính đã lập tức thất tiết với tôi. Tôi nổi giận đùng đùng, về nhà đánh đuổi vợ tôi đi. Nàng tha thiết van xin:

- Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.

Nhưng những lời nàng đối với tối lúc đó chỉ là gian dối, ngụy biện, tôi gạt phát đi và dùng những lời lẽ đay nghiến, trì triết để đuổi nàng đi. Giá lúc ấy tôi bình tĩnh hơn, nói rõ nguyên do cho nàng giải thích thì gia đình tôi đã không phải chịu cảnh li tán như ngày hôm nay.

Uất ức vì không được giãi bày, Vũ Nương đã tắm gội chay sạch và tìm đến bến sông Hoàng Giang để tự vẫn nhằm minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết rõ sự tình nhưng biết vợ tự vẫn cũng hết sức đau lòng, tôi ra bến sông để vớt xác nhằm chôn cất nàng chu đáo nhưng không tài nào tìm thấy, tôi và con đành trở về nhà.

Cuộc sống một mình gà trống nuôi con quả chẳng dễ dàng, đêm ấy tôi thắp đèn bỗng bé Đản reo lớn:

- Cha Đản lại đến kìa. Chính là người cha vẫn đến cùng mẹ đó.

Bấy giờ tôi mới biết mình đã nghi oan cho vợ. Trong những ngày xa tôi, vì thương nhớ và cũng muốn bù đắp cho con, để bé Đản được nhận tình yêu đủ đầy của cha và mẹ mà nàng đã trỏ bóng mình bảo cha Đản. Tôi lại ghen tuông mù quáng, nghe lời đứa trẻ ngây thơ, không tìm hiểu rõ nguồn cơn nên đã gây nên cái chết oan nghiệt cho nàng. Tôi ân hận lắm.

Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua. Bỗng một hôm Phan Lang người cùng làng tôi mang chiếc hoa mà ngày xưa vợ vẫn hay dùng đến và nói lời Vũ Nương nhắn gửi, bảo tôi lập đàn giải oan trên sông, đốt cây đang chiếu xuống nước để Vũ Nương trở về. Tôi nghe xong bán tín bán nghi, nhưng nhìn chiếc hoa đúng là của vợ tôi thật. Tôi đành lập một đàn giải oan trên sông, Vũ Nương trở về thật, nhìn thấy tôi nàng đã nói:

- Thiếp cảm tạ tấm lòng chàng, ơn đức Linh Phi cứu mạng thiếp đã hứa sẽ ở đó cùng Linh Phi, sông chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về nhân gian được nữa.

Tôi còn chưa kịp nói lời xin lỗi nàng, Vũ Nương đã biến mất…

Nàng trở về chẳng hề trách cứ, oán thán tôi một lời. Điều ấy càng làm tôi đau đớn, day dứt hơn. Chỉ một phút nóng nảy, chỉ vì tính ghen tuông tôi đã cướp đi tình yêu thương của mẹ mà bé Đản vốn được hưởng, và tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình, mất người vợ thảo hiền, dịu dàng. Cả đời này tôi sẽ sống trong day dứt, đau khổ, và mãi mãi không quên nàng…

1
0
Phonggg
23/10/2020 21:50:18

Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:

- Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.

Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:

- Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.

Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa nước mắt. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở.Tôi đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Biết không sống được, bà nói với vợ tôi rằng:

- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ.

Dứt lời, mẹ tôi nhắm mắt. Vợ tôi khóc lóc xót thương và lo liệu chôn cất cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp.

Một năm sau, giặc giã đã bị dẹp yên, tôi khăn gói trở về quê cũ. Biết tin mẹ đã qua đời, tôi đau đớn lắm! Đón đứa con trai từ tay vợ, tôi bế con ra mộ mẹ để thắp nhang. Ra đến đồng, nó quấy khóc mãi, tôi dỗ dành sao cũng không chịu nín. Tôi bảo con:

- Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!

Bất chợt, con tôi bi bô nói:

- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.

Tôi ngạc nhiên gặng hỏi thì con tôi kể rằng đêm nào cũng có một người đàn ông đến nhà. Mẹ nó ngồi cũng ngồi, mẹ nó đi cũng đi theo, nhưng không bao giờ bế nó cả.

Tính tôi vốn đa nghi. Nghe con nói vậy thì cơn ghen chợt bùng lên dữ dội. Tôi vội về nhà, la hét om sòm cho hả giận. Vợ tôi ôm mặt khóc mà rằng:

- Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp!

Nhưng mặc cho nàng thanh minh thế nào tôi cũng không tin. Nàng hỏi tôi chuyện kia do ai nói thì tôi giấu không cho nàng biết. Tôi mắng nhiếc nàng thậm tệ rồi đuổi ra khỏi nhà, dù hàng xóm hết lời bênh vực. Cuối cùng, nàng ngậm ngùi vừa nói vừa khóc:

- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa?

Đoạn nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:

- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Tuy giận là nàng thất tiết nhưng thấy nàng tự vẫn, tôi cũng động lòng thương, cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt: - Cha Đản lại đến kia kìa! rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách: - Đây này! Tôi chợt hiểu ra tất cả và ân hận vô cùng! Thì ra trong thời gian tôi vắng nhà, đêm đêm, vợ tôi thường đùa với con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan tày trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi!

Ở bến sông cạnh làng, có người giữ chức quan đầu mục tên là Phan Lang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh xin tha mạng. Sáng ra, có người biếu ông một con rùa mai xanh. Nhớ lại giấc mơ, ông liền thả con rùa ấy xuống sông.

Mấy năm sau, giặc Minh xâm phạm cửa ải Chi Lăng, dân chúng hoảng sợ lên thuyền chạy trốn ra ngoài biển, không may gặp bão lớn, chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một động rùa ngoài hải đảo. Có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng: - Đây là vị ân nhân đã cứu sống ta thuở xưa! Rồi bà ta lấy thuốc thần cho uống. Lát sau, Phan Lang sống lại.

Linh Phi truyền mở tiệc thết đãi. Trong đám người dự tiệc, có một mĩ nhân chỉ trang điểm sơ qua, nét mặt rất giống Vũ Nương. Phan Lang bèn hỏi chuyện và được nàng cho biết mình là Vũ Thị Thiết, người cùng làng, vì oan khuất mà phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn và được các tiên nữ dưới thủy cung đưa về đây cùng chung sống với Linh Phi.

Trước khi Phan Lang được đưa ra khỏi thủy cung, Vũ Nương có nhờ ông ta nói với tôi rằng sẽ có ngày nàng tìm về. Nếu tôi còn nhớ tình xưa nghĩa cũ thì hãy lập một đàn giải oan ở bến sông.

Về đến làng, Phan Lang tìm gặp tôi, kể lại mọi chuyện, nhưng tôi không tin. Lúc ông ta đưa ra kỉ vật làm tin là chiếc hoa vàng của vợ tôi thì tôi sợ hãi nhận rằng đây đúng là vật mà nàng mang theo lúc ra đi.

Sáng hôm sau, tôi làm theo đúng lời nàng dặn, lập đàn giải oan suốt ba ngày đêm ở bến sông. Quả nhiên, tôi nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau là năm mươi cỗ xe trang trí cờ tán, võng lọng rực rỡ, lúc ẩn lúc hiện. Tôi vội gọi thật lớn nhưng nàng vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào:

- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, nhưng thiếp không thể trở về nhân gian được nữa!

Trong phút chốc, tất cả tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vò xé lòng tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con lâm vào cảnh sinh li tử biệt. Sai lầm của tôi không phương cứu chữa. Tôi chỉ còn mong ước mọi người hãy nhìn vào thảm cảnh của gia đình tôi mà rút ra bài học: Đã là vợ chồng thì hãy thương yêu, tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Có như vậy, hạnh phúc mới được bền lâu.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo