Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Ngữ văn - Lớp 7
18/12/2020 22:38:57

Hãy viết kết bài cho đề sau: Cảm nghĩ về bài thơ "Qua đèo Ngang"

2 trả lời
Hỏi chi tiết
364
2
1
ulatr
18/12/2020 22:40:28
+5đ tặng
Qua đèo ngang  là một tác phẩm nổi tiếng cuả bà huyện thanh quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân  đi qua đèo ngang là một địa danh  phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét.
 
Mở đầu bài thơ là hai câu đề    
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà”
 
Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang ,khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang  buổi chiều và sắp tối. Đối với một vùng hòng sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây. Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống.
 
“Cỏ cây chen là đá cheo hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
 
Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương. Trời đã chiều tối cảnh vật đã lụi tàn khiến cho tâm trạng của bà càng trở nên xốn xang vô cùng. Cái thời điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà. Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật.
 
Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết. Ta phải công nhận là cảnh vật trong thơ được hiện lên khá là sinh động. Có cỏ cây có hoa lá nhưng lại là một cảnh tượng chen chúc nhau để tìm sự sống. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá,lá. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt ra xa chút nữa như để tìm một hình ảnh nào đó để tâm trạng thi nhân phần nào bớt chút hiu quạnh. Và phía dưới chân đèo xuất hiện một hình ảnh.
 
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
 
Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm. Bởi thế giới con người nơi đây chỉ có vìa chú tiểu đang gánh nước hay củi về chùa. Đó là một hình ảnh bình thường thế nhưng chữ “lom khom”khiến hình ảnh thơ thêm phần nào đó vắng vẻ buồn tẻ thê lương. Đây là một nét vẽ ước lệ mà ta thường thấy trong thơ cổ “vài” nhưng lại rất thần tình tinh tế trong tả cảnh. Mấy nhà chợ bên kia cũng thưa thớt tiêu điều. Thường thì ta thấy nói đến chợ là nói đến một hình ảnh đông vui tấp nập nào người bán nào người mua rất náo nhiệt. Thế nhưng chợ trong thơ bà huyện thanh quan thì lại hoàn toàn khác,chợ vô cùng vắng vẻ không có người bán cũng chẳng người mua chỉ có vài chiếc nhà lác đác bên sông. Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn. Sự đối lập của hai câu thơ khiến cho cảnh trên sông càng trở nên thưa thớt xa vắng hơn. Các từ đếm càng thấy rõ sự vắng vẻ nơi đây. Trong sự hiu quạnh đó bỗng vang lên tiến kêu của loài chim quốc quốc,chim gia trong cảnh hoàng hôn đang buông xuống.
 
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
 
Nghe tiếng chim rừng mà tác gỉa thấy nhớ nước,nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà. Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi. Lữ khách là một nữ nhi nên nhớ nước nhớ nhà nhớ chồng nhớ on là một điều hiển nhiên không hề khó hiểu. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình.
 
“Dừng chân ngắm lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
 
Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả. Bốn chữ "dừng chân ngắm lại" thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn xa xôi mênh mang,tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết. Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình  "một mảnh tình riêng ta với ta". Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé  "một mảnh tình riêng" của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang.
 
Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc .

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng ký tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
2
Thiên sơn tuyết liên
18/12/2020 22:56:42
+4đ tặng

Qua hai câu thơ đầu của bài thơ, bà Huyện Thanh Quan đã tái hiện trước mắt người đọc cả không gian và thời gian của Đèo Ngang khi nhân vật trữ tình đặt chân đến địa danh này:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”

Nhà thơ đã chọn một khoảnh khắc mang tính nghệ thuật thường xuất hiện trong thơ để miêu tả phong cảnh Đèo Ngang. Đó là thời điểm ngày dần tàn, trời tắt nắng, cả thiên nhiên vạn vật xuất hiện trên cái nền của “bóng xế tà”. Rõ ràng đây là khoảng thời gian gợi lên trong lòng người nhiều suy ngẫm sau những mỏi mệt của một ngày dài.

Phải chăng, trải qua một hành trình rất dài từ Thăng Long vào Huế, khi “bước tới Đèo Ngang”, bản thân nhà thơ cũng chất chứa những nỗi niềm sâu kín nhưng chưa có cơ hội trải lòng. Đến khi ánh sáng bắt đầu tàn lụi để nhường chỗ cho bóng xế ban chiều cũng là lúc kịp đặt chân đến Đèo Ngang, có cơ hội hướng tầm mắt bao quát cảnh vật.

Những cảm xúc hoài vọng về quê hương, về nơi chôn nhau cắt rốn của nhà thơ lại dạt dào và hóa thành những dòng thơ. Không chỉ nhắc đến thời gian khi đặt chân đến Đèo Ngang mà tác giả còn gợi ra sự xuất hiện của thiên nhiên, cảnh vật trong không gian núi đèo. Đó là sự “chen” nhau của cỏ cây, đá núi, hoa lá.

Khi phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy trong câu thơ có tổng cộng bảy tiếng nhưng từ “chen” đã được điệp lại hai lần đã góp phần tạo nên một bức tranh thiên nhiên hoang vu nhưng rậm rạp. Sức sống của thiên nhiên nơi Đèo Ngang cũng vì thế mà hiện lên rất đỗi tự nhiên, mạnh mẽ.

Bức tranh cuộc sống hiện lên trong bài thơ

Bên cạnh việc thể hiện sự sống của thiên nhiên, với hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã làm xuất hiện trong bức tranh cảnh vật ấy bóng dáng của con người:

“Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”

Thông thường, một bức tranh thiên nhiên khi có sự xuất hiện của con người thì cũng trở nên sống động hơn và mang lại cảm giác hài hòa giữa nhân với cảnh. Thế nhưng, khi con người xuất hiện trong tranh ấy với bóng dáng nhỏ nhoi và sự ít ỏi, trong trạng thái “lác đác”, trong tư thế “lom khom” thì lại càng làm cho không gian cảnh vật thêm hoang vắng, mênh mông.

Nói như vậy là bởi giữa không gian rộng lớn, hùng vĩ, bát ngát trùng mây của Đèo Ngang nhưng chỉ xuất hiện đôi nét phác họa về vài chú tiều, về những mái nhà, khu chợ thưa thớt. Con người chính vì vậy trở nên nhỏ bé vô cùng trước sự vô hạn của không gian. Như vậy, trên khung nền của cảnh thiên nhiên núi đèo bát ngát, bao la, mặc dù có sự hiện hữu của đời sống con người nhưng nếu đó chỉ là sự xuất hiện thấp thoáng, ít ỏi thì chỉ càng tô đậm thêm sự hoang sơ, trập trùng, và bất tận của cảnh mà thôi.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy hai câu thơ đã thể hiện việc tác giả sử dụng rất khéo léo nghệ thuật đăng đối. Nếu câu trước có “tiều vài chú”, thì câu sau có sự xuất hiện của “chợ mấy nhà”, nếu câu trước những chú tiều ở trong tư thế “lom khom dưới núi” thì câu sau những gian nhà, phiên chợ chỉ “lác đác bên sông”.

 

Đặc biệt, với phép đảo trật tự cú pháp, để tính chất của hình ảnh lên trên trước sự xuất hiện của nó (thay vì viết “Vài chú tiều lom khom dưới núi” –“Chợ mấy nhà lác đác bên sông” thì nhà thơ lại viết thành “Lom khom dưới núi, tiều vài chú” – “Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”) cùng với sự kết hợp các từ láy “lác đác”“lom khom” đã có tác dụng gợi hình cho và nhấn mạnh sự leo lét của sự sống con người ở hai câu thực này.

Xem thêm:  Tóm tắt nội dung truyện Bức tranh của em gái tôi
Tâm trạng tác giả trong khung cảnh chiều buồn

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, người đọc còn nhận ra rằng trước khoảnh khắc tắt nắng của một ngày, không gian mênh mông, hoang sơ và đời sống con người thì thưa thớt, vắng vẻ, tâm trạng của nhân vật trữ tình mới thêm trĩu nặng những nỗi niềm, tâm tư:

“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Trong hai câu thơ trên, bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng điển tích về chim quốc quốc và chim gia gia. Theo chuyện xưa tích cũ, vua Thục Đế do bị mất nước nên rất đau lòng đến nỗi ngày đêm kêu gào và tiếng kêu cất lên chính là tiếng “quốc quốc” (nghĩa là đất nước) và về sau chim quốc quốc được xem là sự hóa thân của nhà vua mà thành.

Loài chim thứ hai là chim gia gia, còn có tên gọi khác là đa đa lại xuất phát từ câu chuyện liên quan đến hai nhân vật là Bá Di và Thúc Tề. Đây đều là những bề tôi trung thành, chính trực của nhà Thương. Khi đất nước xảy ra biến cố, trước nguy cơ nhà Thương bị sụp đổ vì uy quyền, thanh thế của nhà Chu, Bá Di và Thúc Tề vẫn giữ đạo trung quân, họ cả đời chỉ thờ một vua chứ không thể mang danh kẻ phản bội. Dù có chết họ cũng chịu chứ không chấp nhận sống chung với nhà Chu.

Đến khi qua đời, linh hồn hai người họ đã hóa thành chim đa đa và không ngớt lời kêu “bất thực cốc Chu gia” (nghĩa là “Không ăn thóc nhà Chu”). Từ gia xuất hiện trong tiếng kêu ấy lại đồng âm với từ gia (có nghĩa là nhà)Do vậy, khi nhắc đến hai điển tích về nghĩa tình sâu nặng đối với nước nhà của những nhân vật cổ xưa, dường như nhà thơ cũng muốn gửi gắm trong đó một nỗi niềm sâu kín về sự thay ngôi đổi vị trong thời đại của mình.

Tâm trạng “nhớ nước”“thương nhà” của nhà thơ đã làm toát lên một tấm lòng đáng trân trọng và cần được cảm thông. Bởi vì, trước khi đến Huế, nhân vật trữ tình đã có một khoảng thời gian dài sống và gắn bó với mảnh đất Thăng Long. Chính hình ảnh về vùng đất và con người nơi ấy đã in sâu vào tâm trí của nhà thơ. Nó đã trở thành một miền kí ức dạt dào để đến lúc rời xa, trong thâm tâm bà nảy sinh những cảm xúc “nhớ”“thương” trên là điều không thể tránh khỏi.

Do vậy, khi phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang ta thấy Đèo Ngang vốn đã hoang vắng, u tịch nhưng cũng không thể trở nên rộn rã, vui tươi hơn khi có sự xuất hiện của âm thanh tiếng chim. Bởi, tiếng kêu tha thiết, xót xa như vậy thì chỉ làm tăng thêm vẻ cô liêu, buồn vắng của cảnh vật. Tiếng kêu của những loài chim ấy là một cách ẩn dụ cho tiếng lòng của một tâm hồn hoài vọng về sự thịnh suy của triều đại đã qua.

Khi tâm trạng không thể cất giấu mãi hoài vào trong trong cảnh vật, tác giả đã bộc lộ nó một cách trực tiếp qua hai câu thơ cuối:

“Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Những câu thơ tiếp tục gợi ra sự đối lập giữa một con người nhỏ bé, đơn độc với sự rợn ngợp, bao la của non nước mây trời Đèo Ngang. Khi con người đã có dịp cùng trải qua bao thăng trầm với lịch sử dân tộc, con người ấy như bỗng nghiệm ra một điều: đời người chỉ là hữu hạn trong sự vô cùng của thiên nhiên, đất nước…

Cách cắt mảnh các hình ảnh “trời”“non”“nước” và những từ mang ý nghĩa riêng lẻ “một”“mảnh”“riêng”“ta” đã làm nổi bật lên trên sự bất tận, bao la của tạo vật là nỗi trống vắng, cô đơn của con người. Con người ấy lại không thể tỏ bày cùng ai những nỗi niềm đang chất chứa mà chỉ có thể bầu bạn với chính mình (“ta với ta”) thì lại càng trở nên cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết.

Vốn là người đất Bắc nhưng khi thời thế thay đổi, một người phụ nữ dù có mạnh mẽ đến đâu nhưng khi đặt chân đến một vùng đất mới, nhận nhiệm vụ mới của một triều đại mới thì làm sao không khỏi nhớ về gia đình và tiếc nuối về một triều đại đã tàn lụi. Do vậy, khi đứng trước ranh giới giữa hai miền đất – một đã từng gắn bó sâu đậm, một lạ lẫm mới mẻ, có tâm sự nhưng không biết thổ lộ cùng ai, bà Huyện Thanh Quan đã chọn cách gửi hết cái tình của mình vào cảnh trong phút “dừng chân đứng lại” hướng tầm mắt lên khắp cảnh vật bao la.


 
Tanjirou
read lại đề bài được không ạ

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng bạn bè học sinh cả nước, đến LAZI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Câu hỏi Ngữ văn mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo