Dưới thời Lý nhà nước rất chăm lo sản xuất nông nghiệp. Nghi lễ cày ruộng tịch điền có từ thời Tiền Lê được các vua đầu triều Lý duy trì và rất coi trọng. Về ruộng đất, trên danh nghĩa, quyền sở hữu thuộc về nhà nước, triều đình trực tiếp quản lí các loại ruộng quốc khố, đồn điền, tịch điền, ruộng đất công làng xã, đồng thời sử dụng để ban thưởng phân phong cho các công thần. Ngoài ra, ruộng chùa là một loại hình sở hữu ruộng đất phổ biến ở thời kì Phật giáo phát triển thịnh đạt. Năm 1086, nhà Lý phân biệt chùa làm 3 loại: đại danh lam, trung danh lam và tiểu danh lam. Cách phân biệt này có lẽ cũng phản ánh sự khác nhau về kinh tế giữa các chùa thời ấy. Thực tế thì ruộng chùa thời Lý chiếm một diện tích không nhỏ.
Bên cạnh ruộng công, thời Lý, chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân đã khá phổ biến. Hiện tượng mua bán, kiện tụng và cúng tặng ruộng đất đã xuất hiện ở nhiều nơi. Nhà Lí đã ban hành nhiều điều luật công nhận quyền tư hữu này. Năm 1123, nhân việc cấm giết trâu bò nhà Lí ra lệnh: "Từ nay về sau cứ 3 người làm 1 bảo, không được giết trâu ăn thịt, ai làm trái thì bị trị tội theo hình luật”. Các năm sau (1137, 1143), nhà Lí lại tiếp tục khẳng định biện pháp cứ “3 nhà làm 1 bảo” liên kết với nhau, kiểm tra mùa màng và không được tự tiện giết trâu bò. Việc kiểm tra chặt chẽ, thường xuyên số lượng dân đinh, số lượng hộ gia đình gắn liền với việc bảo vệ sức kéo trâu bò là một chính sách nông nghiệp tích cực trong điều kiện nước ta.
Thời Lí, thủ công nghiệp khá phát triển. Tại Vĩnh Phúc, nghề gốm phát triển khá mạnh. Người thợ nung gốm Vĩnh Phúc đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm, kĩ thuật tinh xảo, đã làm được những viên gạch xây tháp Đạo Trù, tháp Kim Tôn, đặc biệt là tháp Bình Sơn rất đẹp. Tại Phong Châu, triều đình mở xưởng luyện sắt, do nhà nước quản lí. Công xưởng này thiết lập trên khu mỏ sắt lộ thiên tại Thanh Vân, Đạo Tú (hiện nay thuộc huyện Tam Dương)
Đạo Phật được truyền bá vào vùng đất Vĩnh Phúc từ sớm. Thời Lý, khi Phật giáo phát triển, nhiều ngôi chùa nổi tiếng được xây dựng trên đất Vĩnh Phúc: chùa Cói (nay thuộc phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên), chùa Yên Nhiên (nay thuộc xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường), chùa Then (nay thuộc xã Tam Sơn, huyện Lập Thạch)... Tháp Bình Sơn (Tam Sơn, Sông Lô) cao 16,115m, chân đế mỗi cạnh 4m có 11 tầng (không kể tầng bệ), là công trình kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng. Kết cấu và kiến trúc tháp khá đặc biệt, hoàn toàn bằng đất nung lắp ghép. Toàn bộ thân và móng đều bằng gạch. Bốn mặt tháp trang trí đầy hoa văn khắc chìm hoặc đắp nổi các hình hoa sen, lá đề, rồng, run, sư tử hí cầu, hoa chanh, dây leo.
Từ giữa thế kỉ XII, triều chính nhà Lí dần suy yếu. Kinh tế, nhất là nông nghiệp, ngày càng sa sút, các phe phái phong kiến đánh lẫn nhau. Vua Lí vì thế phải nhiều lần chạy loạn và nương tựa vào thế lực họ Trần. Từ thế kỉ XIII, họ Trần dần nắm quyền hành trong triều. Năm 1226, Trần Thủ Độ ép Lí Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Triều Lí kết thúc, triều Trần được thành lập (1226 - 1400). Nhà Trần áp dụng nhiều biện pháp để khôi phục sức mạnh của chính quyền trung ương, củng cố nền thống trị của dòng họ, khôi phục kinh tế, ổn định tình hình xã hội. Các vua Trần truyền ngôi cho con sớm, lên làm Thái thượng hoàng, cùng với vua trẻ lo việc chính sự.
Về mặt hành chính, năm 1242, nhà Trần đổi 24 lộ, phủ thời Lí thành 12 lộ (nhà Hồ đổi các lộ thành trấn). Dưới lộ (hay trấn) là các phủ, được phủ là châu, dưới châu là huyện, dưới huyện là các xã. Xã là đơn vị hành chính cơ sở, đứng đầu là Đại tư xã (từ ngũ phẩm lên), Tiểu tư xã (từ ngũ phẩm xuống), đặt xã quan, xã chính, xã sử, xã giám.
Vùng đất Vĩnh Phúc cho đến cuối thời Trần thuộc vào các châu Tam Đới (sau đổi thành phủ Vĩnh Tường) lộ Đông Đô và trấn Tuyên Quang. Thuộc châu Tam Đới nay có các huyện Yên Lạc, huyện Lập Thạch; thuộc trấn Tuyên Quang nay có huyện Tam Dương (vốn là huyện Dương). Thời Hồ và thuộc Minh, về cơ bản đơn vị hành chính Vĩnh Phúc không thay đổi nhiều.
Về kinh tế, đầu triều Trần, nông nghiệp được triều đình quan tâm phát triển. Công cuộc khẩn hoang, xây dựng điền trang cũng được chú ý.
Về quân sự, nhà Trần rất chăm lo xây dựng và củng cố quân đội theo phương châm “binh lính cốt tinh nhuệ không cốt nhiều”. Ngoài lực lượng quân đội chính quy, nhà Trần cho phép các vương hầu, các chủ trại, phụ đạo tự lập quân đội riêng. Ở các xã, nhà Trần thành lập lực lượng dân binh lo bảo vệ trật tự trị an, khi có giặc, tham gia chiến đấu bảo vệ quê hương.