Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Thuyết minh về thể loại thơ mới

Thuyết minh về thể loại Thơ mới 

3 trả lời
Hỏi chi tiết
1.158
1
4
Nguyễn Hà Linh
26/01/2021 20:42:36
+5đ tặng
Nền văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổi lên hai trào lưu văn học tiêu biểu: Văn học hiện thực phê phán và văn học lãng mạn. Nhắc đến trào lưu văn học lãng mạn không thể không nhắc đến thơ Mới. Đây là một phong trào văn học xuất hiện và nồ rộ trong vòng mười năm nhưng những thành tựu nó để lại là vô cùng lớn, làm nên một cuộc cách tân có ý nghĩa cách mạng về thơ ca.

Theo Hoài Thanh, khái niệm thơ Mới phải được hiểu là mới cả về mặt nội dung và hình thức, mà trước hết là về nội dung, ông cũng cho rằng, thơ ca Việt Nam đi từ thời cổ điển sang hiện đại là đi từ chữ “ta” đến chữ “tôi” (Một thời đại trong thi ca). Ban đầu, thơ Mới được hiểu là thơ tự do nhưng đến chặng phát triển đỉnh cao của nó, khái niệm về thơ Mới được bổ sung và hoàn chỉnh. Thơ Mới là thơ ca phản ánh cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ với tất cả các cung bậc phong phú đa dạng, phức tạp của nó thông qua hình thức nghệ thuật có nhiều đổi mới, cách tân nhằm phát huy cá tính sáng tạo độc đáo của mỗi người nghệ sĩ.

Thơ Mới ra đời là sự vận động phát triển của thơ ca nói chung mang tính tất yếu: đã đến lúc phải đổi mới, cách tân, nhất là về mặt thể loại để thoát khỏi tính qui phạm hạn chế cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Bên cạnh đó là sự biến đổi trong đời sống xã hội cũng làm nảy sinh một bộ phận công chúng mới và không thể không kể đến ảnh hưởng của văn học phương Tây nói chung, thơ ca lãng mạn và trường phái thơ tượng trưng Pháp nói chung. Quá trình hình thành của thơ Mới được đánh dấu bằng bài viết “Một lối thơ mới trình làng giữa làng thơ” kèm theo bài thơ “Tình già” của Phan Khôi đăng trên tờ “Phụ nữ tân văn” vào tháng 10 năm 1932. Trong bài viết của mình, Phan Khôi công khai chĩa mũi nhọn vào thơ ca cũ, loại thơ gắn liền với những qui phạm, niêm, luật, vần, đối gò bó, chặt chẽ. Từ đó, ông đề xướng, ra một tư tưởng mới: Thơ phải vượt ra khỏi tính qui phạm ấy. Thơ không bị bó hẹp bởi số câu, số chữ lại càng không bị chi phối bởi qui định bằng trắc, niêm luật trong thơ cũ. Với sự kiện này, Phan Khôi đã gây nên được cả một cao trào hưởng ứng. Chỉ trong một thời gian ngắn, phong trào thơ Mới đã chiếm được ưu thế trên thi đàn.

Sự xuất hiện, vận động phát triển và đạt đỉnh cao và bước vào thoái trào của phong trào thơ Mới có thể chia thành ba chặng:

Từ năm 1932 - 1935, đây là chặng đường phong trào thơ Mới đấu tranh về mặt lí luận, chứng minh về mặt thực tiễn để khẳng định vị trí, chỗ đứng của mình trên thi đàn văn học dân tộc. Sau một thời gian ngắn, phong trào thơ Mới thực sự thắng thế. Thơ Mới chiếm được cảm tình yêu mến của tầng lớp công chúng thị dân, trí thức tiểu tư sản, sinh viên, học sinh và thế hệ trẻ ở các đô thị. Họ tìm thấy ở đó bức chân dung tâm hồn của mình, tìm thấy sự giao cảm giữa người nghệ sĩ, thi ca với chính tâm hồn họ. Thơ Mới thời kì này tuy những sáng tác tuy còn ít ỏi nhưng thực sự có tiếng vang, bước đầu mang đến những cách tân mới mẻ.

Từ 1936 đến 1939 có thể coi là chặng viên mãn của phong trào thơ Mới với sự xuất hiện của hàng loạt các tên tuổi - mà về sau đã được Hoài Thanh, Hoài Chân tổng kết qua công trình nghiên cứu của mình, chỉ ra những sắc thái riêng như: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Anh Thơ, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử, Huy Cận... Đặc sắc của phong trào thơ Mới ở chặng này là nó diễn tả một cách chân thực, sinh động nhiều màu, nhiều vẻ cái tôi cá nhân của các thi sĩ. Dường như không có bất kì sự trùng hợp nào trong một tính chất thống nhất của thơ Mới là buồn, sầu, tủi ở mỗi người nghệ sĩ. Hơn nữa, trên bình diện hình thức nghệ thuật, mỗi nghệ sĩ tìm đã tìm được cách diễn đạt riêng của mình, thể hiện cá tính sáng tạo nhưng vẫn không tách rời sự gắn bó với quê hương đất nước dân tộc bằng những rung động trong sáng.

Từ năm 1940 đến năm 1945, thơ Mới bước vào giai đoạn thoái trào mà nguyên nhân trước hết là do bản chất của thơ Mới là tìm về cái Tôi, đào sâu cái Tôi cá nhân nhưng đào sâu mãi cái tôi cá nhân mà không chịu mở rộng nó ra bên ngoài và đưa bên ngoài vào cuộc sống của chính mình mà cái tôi trở nên nhỏ bé, tất yếu dẫn đến sự bế tắc, nhất là khi chưa tìm được ánh sáng lí tưởng mới soi đường. Điều này được thể hiện rất rõ trong tập “Ánh sáng và phù sa” của Chế Lan Viên:

“Ta là ai ngọn gió siêu hình

Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt”

Thơ Mới ra đời là sự vận động phát triển của thơ ca nói chung mang tính tất yếu

Cuộc chiến tranh xâm lược lần hai của thực dân Pháp với không khí bi thương từ thành thị tới nông thôn cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tư tưởng của người nghệ sĩ thơ Mới, vốn là những người đang vì tôn thờ cái Tôi của mình mà đứng ngoài cuộc... Chính vì những điều đó mà ở giai đoạn này, thơ Mới có nhiều thay đổi. Các thi sĩ không còn sáng tác nhiều và sung sức như chặng trước, khiến cho thơ ca có diện mạo khá nghèo nàn. Những cái tôi cá nhân hoặc trở nên cũ mòn, không phù hợp hoặc mang màu sắc cá nhân, hưởng thụ với những triết lí của chủ nghĩa cá nhân người tư sản. Thơ Mới xuất hiện xu hướng chú trọng tới chủ nghĩa hình thức thuần túy như trong nhóm Xuân thu nhã tập. Mặt khác, một số nhà thơ chủ trương thành lập các trường phái thơ mang tên thơ điên, thơ loạn thể hiện sự bế tắc trong tư tưởng và quan niệm nghệ thuật. Thơ Mới bước vào giai đoạn thoái trào để chuẩn bị cho sự phát triển theo những hướng mới, phù hợp hơn.

Hình thành, phát triển đạt đỉnh cao và suy thoái trong vòng mười năm, không thể phủ nhận rằng các nhà thơ Mới và thơ ca của họ vẫn đứng ngoài cuộc đấu tranh chung của dân tộc, chưa phản ánh được những mảng hiện thực được coi là trung tâm, là sôi động nhất thời bấy giờ; cái Tôi cá nhân vẫn mang màu sắc bi quan chủ nghĩa nhưng thơ Mới cũng đã đạt được những thành tựu nổi bật. Nhìn chung thơ Mới có giai điệu, âm hưởng buồn nhưng với cảm hứng bay bổng và lãng mạn của mình thì ý nghĩa khách quan của nó chính là ở một thái độ đối lập, vượt qua khỏi thực tại đen tối thời bấy giờ, ngầm thể hiện ước mơ về những sự đổi thay. Thơ Mới đã được viết ra với cảm hứng về quê hương, đất nước, thiên nhiên, phong cảnh làng quê... rất đỗi quen thuộc. Nó chứng tỏ sự gắn bó với quê hương đất nước trong tâm hồn các thi sĩ. Đây cũng là một biểu hiện của lòng yêu nước, và tinh thần dân tộc của các nhà thơ Mới. Thơ Mới cũng mang đến một cuộc các mạng trong thi ca cả về mặt nội dung và hình thức thơ. Lần đầu tiên, “chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đôi của nó” xuất hiện trong thi ca” cùng với đó là sự nở rộ của các phong cách thơ độc đáo không một sự lặp lại. Thơ Mới cũng đem đến sự cách tân mới mẻ trong hình thức thơ phá bỏ tính qui phạm nghiêm ngặt trước đó, mang đến cho thơ một màu sắc mới, một hình ảnh mới.

Đóng góp đáng ghi nhận của thơ Mới là đã làm nên một cuộc cách tân có ý nghĩa cách mạng về thơ ca. Đó là một hiện tượng nên có, cần có và phải có trong thơ ca Việt Nam (Nguyễn Đăng Mạnh).

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Gonduc
26/01/2021 20:43:53
+4đ tặng

a.  Luật bằng trắc.

Luật bằng, trắc trong thơ lục bát rất dễ nhận biết. Các câu chẵn 2, 4, 6, 8 được quy định như sau:

 

1

2

3

4

5

6

7

8

 

Câu lục

 

B

 

TY

 

B

 

 

 

Câu bát

 

B

 

Tì-

 

B

 

B

–  Các chữ số lẻ (1, 3, 5): có thể trắc và bằng đều được.

–  Chữ thứ 7 câu bát: phần lớn là trắc

–  Chữ thứ 6 và thứ 8 câu bát đều bằng nhưng có sự phân biệt như sau:

+ Chữ thứ 6 là bằng (không dấu huyền) thì chữ 8 phải là bằng (có dấu huyền).

+ Chứ thứ 6 là bằng (có dấu huyền) thì chữ thứ 8 phải là bằng (không có dấu huyền).

Ví dụ:

Long lanh đáy nước in trời,

Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.

(Truyện Kiều)

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.

(Truyện Kiều)

Trường hợp ngoại lệ: Khi câu lục được tạo thành hai vế tiểu đối (3/3) thì chữ thứ hai chuyển thành trắc:

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người mỗi vẻ mười phán vẹn mười.

hoặc:

Đỗ tế nhuyễn, của riêng tây,

Sạch sành sanh vét cho dầy túi tham.

(Truyện Kiều)

b.  Vần thơ

Thơ lục bát vừa có vần chân vừa có vần lưng, tất cả đều là vần bằng. Cách gieo vần như sau:

–  Chữ thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát;

–  Clìữ thứ 8 cầu bát vần với chữ thứ 6 câu lục;

–  Cứ vận động luân chuyển như thế cho đến hết bài.

Ví dụ:

Trông chừng thấy một văn nhân,

Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau chân theo một vài thằng con con.

(Truyện Kiều)

– Trường hợp ngoại lệ: Chữ thứ 6 câu lục bắt đầu vần với chữ thử 4 câu bát.

– Ví dụ:

Ông ơi, ông vớt tôi nao,

Tôi có lòng nào, ông hãy sáo măng.

(Ca dao)

Trèo lên cây bưởi hái hoa,

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

(Ca dao)

c. Nhịp thơ

Nhịp thơ lục bát chủ yếu là nhịp chẵn: 2/2/2; 2/2/2/2; hoặc 4/4. Trường hợp đặc biệt mới có nhịp lẻ. Lúc đọc thơ lục bát cần chú ý thể hiện cho đúng để biểu cảm.

Tóm lại, trên đây là một vài điều cơ bản về thi pháp thơ lục bát cần biết để học và làm thơ lục bát.

5
1
Nguyễn Minh Thạch
26/01/2021 20:46:40
+3đ tặng

Việc Pháp cai trị Việt Nam vào sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, cùng với việc Pháp đẩy mạnh phong trào khai phá thuộc địa đã vô tình đẩy nhanh làn gió của văn hóa phương Tây vào Việt Nam.

Giới trí thức trẻ nhanh chóng tiếp thu văn hóa Pháp và nhận ra vần luật, niêm luật của cổ thi đã quá gò bó trong việc thể hiện tiếng thơ của con người. Năm 1917, trên báo Nam Phong (số 5), Phạm Quỳnh, nổi tiếng là người bảo thủ, cũng phải thú nhận sự gò bó của các luật thơ cũ:

"Người ta nói tiếng thơ là tiếng kêu của con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy cho nó hay hơn nhưng cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng tự nhiên vậy."

Sau đó, Phan Khôi cũng viết nhiều bài báo chỉ trích những trói buộc của thơ văn cũ và đòi hỏi cởi trói cho sáng tác thơ ca.

Trong khoảng 1924-1925, cuốn tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách kể về mối tình Đạm Thủy-Tố Tâm đã gây sóng gió trong giới học sinh và thanh niên thành thị, dù tình yêu ấy chưa vượt qua được rào cản của đại gia đình phong kiến. Tiếp theo đó, năm 1928, Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã phá vỡ vần điệu niêm luật, số câu, số chữ của "thơ cũ" khi dịch bài La cigale et la fourmi (Con ve và con kiến) của La Fontaine sang tiếng Việt. Năm 1929, Trịnh Đình Rư tiếp tục viết trên báo Phụ nữ tân văn (số 26):

"Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy."[1]

Ngày 10 tháng 3 năm 1932, bài thơ Tình già của Phan Khôi ra mắt bạn đọc trên báo Phụ nữ tân văn số 122 cùng với bài giới thiệu mang tên Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ đã có tiếng vang mạnh mẽ, được xem là bài thơ mở đầu cho phong trào Thơ mới.[2] Ngay sau đó, cuộc tranh luận giữa lối thơ mới và thơ cũ diễn ra vô cùng gay gắt. Mãi đến năm 1941, cuộc tranh chấp mới chấm dứt do sự thắng thế của lối thơ mới, khép lại mấy trăm năm thống lĩnh của thơ Đường.[3] Một thời kỳ vàng son mới của văn học Việt Nam đã diễn ra với tên gọi quen thuộc là phong trào Thơ mới.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo