1“Từ điển Hán - Việt” của Đào Duy Anh giải thích mông nghĩa là “tối tăm” còn quạnh là “vắng vẻ”. Ở các từ điển khác kết cấu mông quạnh được giải thích nghĩa là “rộng rãi và vắng vẻ”. Dù giải thích tách riêng thành hai yêu tố mông, quạnh hay thành một cấu kết mông quạnh, thì ý nghĩa của chúng vẫn được nhận diện phù hợp với ý nghĩa chung của toàn thành ngữ. Theo cách hiểu này thì đồng là một danh từ và ba yếu tố không, mông, quạnh được xem là các tính từ bổ nghĩa cho danh từ trung tâm có chức năng lột tả cảnh rộng rãi, tối tăm, vắng vẻ mà thành ngữ đồng không mông quạnh hàm chỉ. Song khi khảo sát loại thành ngữ có bốn yếu tố, chúng ta chưa gặp một dạng thức nào có cấu tạo gồm một trung tâm và ba yếu tố phụ làm định ngữ như cách giải thích ở trên. Tính cá biệt và phi hệ thống này đã khiến chúng ta phải tìm một cách lí giải khác.
Nhìn chung, đồng không mông quạnh được xem là một thành ngữ đối ứng, trong đó đồng đối với mông, không ứng với quạnh. Các từ không, quạnh, đối ứng với nhau là hiển nhiên và hợp quy tắc. Vấn đề chủ yếu là ở cặp đồng và mông. Xung quanh cặp từ này cũng có lắm cách hiểu khác nhau. Có thể thấy ít nhất là có những cách hiểu sau đây:
. Trong tiếng Việt có các từ mông và đồng có nghĩa gần nhau và đều chỉ trẻ nhỏ. Đó là nghĩa trong các từ nhi đồng, đồng dao, mông học, mông huấn. Cách Ií giải này thỏa mãn được sự đối ứng và tương hợp về nghĩa của cặp từ mông đồng trong thành ngữ đồng không mông quạnh vì theo quan niệm dân gian, trẻ con gắn liền với cảnh đầm ấm, yên vui, nếu đến một nơi nào đó mà vắng vẻ, trống thiếu trẻ con thì người ta cũng cảm nhận thấy sự trống vắng và buồn tẻ. Điều này khá gần gũi với ý nghĩa chung của thành ngữ đồng không mông quạnh hiện đang được dùng trong tiếng Việt. Nhưng rất tiếc là ý nghĩa chung của thành ngữ đang xét lại thiên nói về không gian hơn là nói về quan hệ giữa nguời với người, cho nên, cần xem xét lại cách luận giải này.
. Theo cuốn Từ điển từ nguyên tiếng Hán, có một từ mông chỉ một loài cỏ. Với nghĩa này, mông có thế đối ứng và tương hợp được với đồng (cánh đồng). Quả là đồng và cỏ gắn liền với nhau và có thể đối ứng, tương hợp về nghĩa như đồng khô cỏ úa hay đồng khô cỏ cháy. Song điều khó giải thích là ở chỗ, nếu mông là từ chỉ cây cỏ thì ít khả năng kết hợp được với quạnh. Do đó, sẽ hoàn toàn có lý khi người ta nghi ngờ tính đúng đắn của cách giải thích này.
Cách luận giải thứ ba cho rằng mông vốn là một từ cổ, chỉ bãi trống giữa những cánh đồng. Từ này đang được lưu giữ trong một số thổ ngữ ở Nghệ Tĩnh. Nếu quả đúng là như thế thì ý nghĩa của thành ngữ đồng không mông quạnh là sáng rõ.
Như vậy, cho dù ý nghĩa của các yếu tố trong thành ngữ đồng không mông quạnh còn cần được tìm hiểu thêm, nhưng đối với mọi người, ý nghĩa và cách sử dụng thành ngữ này đều thống nhất. Những khoảng không gian trống trải, vắng lặng, quạnh hiu đều có thể ví với cảnh đồng không mông quạnh
-con dại...
(
Nghĩa đen) Con cái ngu dại, thiếu hiểu biết là do người mẹ.
(
Nghĩa bóng) Con cái làm điều sai quấy thì cha mẹ, người giáo dưỡng phải chịu trách nhiệm về việc đó.
còn nước còn tát
Niềm hy vọng có một sức mạnh diệu kỳ. Nó làm cho những con người khô héo bỗng chốc cũng mang sinh khí trở lại. Đời này, sợ nhất là mình mất đi hy vọng. Vì khi ấy, mình không tin vào bất kỳ điều gì nữa, muốn buông xuôi tất cả mọi thứ. Nhưng ai ơi, không có lối đi nào mà không có ánh sáng, không bao giờ là ngõ cụt cho những người luôn khát khao được vươn mình. Biết rằng, cuộc sống này còn nhiều lắm những khó khăn nhưng chúng ta hãy xem nó như là một trong những thử thách cần có để trưởng thành. Đừng mất đi hy vọng vì thành ngữ có câu
“Còn nước còn tát” mà.
4Câu thành ngữ
“Còn nước còn tát” là lời khích lệ, động viên của người xưa cho tất cả chúng ta về những vấn đề trong cuộc sống. Miễn còn có nước là chúng ta phải tát cho bằng hết mới thôi. Hàm ý là dù có chút hy vọng cũng phải cố gắng thực hiện cho tới cùng vì biết đâu bất n
Giầu nứt đố đổ vách là câu thành ngữ chỉ sự giầu có đến mức tiền bạc của cải xếp chất đầy trong nhà, làm đổ cả vách tường nhà.
Câu này xuất phát từ ngày xưa, khi đó nhà cửa chưa được xây bằng gạch, xi măng chắc chắn như bây giờ, mà tường nhà khi đó thường là các vách nhà bằng gỗ, tre, đất sét, rơm, ...
Đố cửa hay còn gọi khung cửa
Đố tường là cây lớn chắc, mè là cây nhỏ đan vào nhau nối các cây đố.
Khi làm vách đất người ta phải đan mè và đố làm xương, sau đó lấy đất sét nhồi với rơm trát vào hai mặt.
Ngày xưa các cụ thường tích trữ thóc vào đấu ở trong nhà, có nhà còn khoanh gỗ áp vào tường, cửa để đựng thóc, thóc mà nhiều quá có thể gây nứt, đổ vách tường nên người xưa thường cho rằng nhà nhiều thóc gạo là nhà giàu, và câu thành ngữ
giầu nứt đố đổ vách được nói ra là như vậy.
còn nứt đố đổ vách chắc là chỉ cái j đó nhiều ,cực nhiều