. Mở bài.
Một tác phẩm có nhiều thước đo giá trị, trong đó có giá trị nhân đạo là thước đo chủ yếu và cơ bản nhất. Giá trị nhân đạo góp phần quyết định sức sống của tác phẩm đồng thời qua đó, thể hiện thái độ, tình cảm và cách nhìn nhận của nhà văn đối với con người và cuộc sống. Hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài), Vợ nhặt ( Kim Lân), đều toát lên giá trị nhân đạo sâu sắc, khác với văn xuôi thời kỳ trước 1945, đây là giá trị nhân đạo mới.
Mácxim Gorki đã nói “ Văn tức là người”. Đối tượng phản ánh trung tâm cảu văn học là con người. Nhà văn chân chính đi tìm bề sâu và mọi tâm trạng tinh vi, phức tạp nhất của tâm hồn con người để hiểu và yêu con người. Chính vì thế giá trị nhân đạo luôn là vấn đề cấp thiết trong văn chương mọi thời đại. Số phận con người, những khát vọng của con người không bao giờ lại cũ cả.
2. Thân bài
2.1. Định nghĩa khái niệm giá trị nhân đạo
Giá trị nhân đạo trong văn chương truyền thống thể hiện ở nhiều phương diện, khía cạnh. Song nhìn chung, đó là thái độ thương yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là sự đồng cảm với những đau khổ cũng như những khát vọng của con người: là sự ngợi ca khả năng cải tạo hoàn cảnh sống, tin tưởng rằng sự sống là bất diệt. Một tác phẩm hàm chứa những nội dung trên được coi là có tính nhân văn sâu sắc.
Cả hai truyện ngắn mà ta sắp đề cập tới đây đều kế thừa giá trị truyền thống ấy. Tuy vậy, bước sang thời đại mới – thời đại của cách mạng, hơi hướng nhân đạo có phần được phát huy thêm. Các nhà văn không còn bị lâm vào tình trạng bế tắc như trước.
2.2. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt
a. Số phận bi thảm của con người
Đọc Vợ nhặt của Kim Lân, chúng ta tiếp xúc với một màn đêm của cuộc sống ngụ cư ven đô. Cái đó, cái chết luôn là một ám ảnh, nỗi sợ hãi bao phủ lên cuộc sống con người. Kiếp người đó “ vật vờ” “ xám xịt” giống như bóng ma tàn lạnh.
Không gian của truyện tối và kinh hoàng gieo vào lòng người đọc cảm giác đói Ất Dậu ( 1945) kia như đang trở về trước mắt. Vạn vật điêu tàn, đen xám. Tuy thế tác phẩm đã không chỉ đi theo chiều hướng tả chân phê phán hiện thực. Nhà văn không bị lạc điệu, rơi vào sự cợt nhạo trào lộng khi miêu tả chân dung cũng như hành động của cô gái mà Tràng gặp ngoài chợ: đáo để, trơ trẽn, ăn liền một lúc bốn bát bánh đúc và cuối cùng thì cắp cái nón rách theo Tràng về nhà. Hoàn toàn không phải vậy mà gần như ngược lại, Kim Lân xây dựng nhân vật như thế và ông xót xa lắm chứ. Bởi vì cô gái ấy không là hiện thân của cái xấu, cái ác mà là nạn nhân của cái đói nghèo. Đằng sau những lời nói chanh chua, chỏng lỏn kia, cô gái đáng thương hơn chứ không đề đáng ghét. Cái tâm của nhà văn thể hiện rất sâu đậm ở nét này. Ông không thể nào làm khác bởi cái đói nghiệt ngã kia buộc nhân vật của ông có những hành động “ bất đắc dĩ”. Cốt lõi là đằng sau tất cả sự vô ý trơ tráo ban đầu ấy, ở cô gái tiềm ẩn một cái gì kín đáo, e dè, rất nữ tính. Cô ngồi “ chớm” ở mép giường, mặc cảm pha lẫn sợ sệt khi lần đầu tiên về nhà chồng. Thái độ điềm nhiên của cô gái khi đón bát cháo cám từ tay mẹ chồng nói lên một điều rất đáng yêu ở con người này. Nếu như Tràng nhăn mặt thì cô cúi đầu lặng lẽ húp bát cháo. Cô hiểu gia cảnh nhà chồng và hồn nhiên hòa nhập với cái đói khổ đó. Cô gái chứng tỏ là một nàng dâu hiền thục, đã phủ nhận cái nhìn và ấn tượng ban đầu của người đọc truyện.
b. Khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai
Vợ nhặt không chỉ cho chúng ta thêm trân trọng những phẩm giá đáng quý của con người mà còn giúp chúng ta hiểu được khát vọng sống của họ. Cái đói, cái chết có thể khiến người ta phần nào tha hóa nhân cách nhưng hạnh phúc đã như một nguồn sinh lực thay đổi cuộc đời họ. Cuộc hôn nhân lạ lung của của Tràng với người vợ nhặt ngoài đường là một minh chứng không phải trước đó Tràng không khát khao có một gia đình, có một người vợ chăm sóc mẹ anh lúc già yếu. Không phải Tràng không mơ về một ngày nhà cửa quang quẻ, đàn gà ấp nở trong sân, vợ chồng mẹ con vui vầy. Cái cảnh chết choc, tiếng khóc tỉ tê, cái đói đã khiến con người ta có lúc tưởng như không đủ sức với tới hạnh phúc nhỏ bé ấy. Chỉ tới khi người đọc bắt gặp ánh mắt rạng rỡ, hân hoan của cả Tràng và bà cụ.Tứ trước ngọn đèn hiếm hoi, chúng ta mới hiểu rằng nỗi khát khao giờ phút đó đã cháy bỏng da diết như thế nào trong lòng họ. Hai hào dầu phung phí đổi lấy một chút “ sáng sủa” đón mừng hạnh phúc của con trai khiến bà cụ như khỏe lên trẻ lại.
Những mảnh đời nghèo đói đến với nhau, cùng chắp lại thành một cuộc đời ấm áp, nhen nhóm hy vọng. Chủ nghĩa nhân đạo mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm vào nhân vật, tác phẩm của mình vừa trực tiếp thể hiện qua tâm trạng nhân vật, vừa gián tiếp qua bố cục câu chuyện. Chiều hướng vận động của thời gian trong truyện đi từ chiều tàn, đêm tối tới ánh sáng từ “ tuyệt vọng “ tới “ hy vọng”, từ “ một ngọn đèn” hiếm hoi được khêu lên đến hình ảnh “ lá cờ đỏ” phấp phới trong trí nhớ của Tràng. Tất cả là tích cực, là sự tin tưởng vào khả năng thay đổi cuộc sống, hoàn cảnh của nhà văn và nhân vật. Một nhân cách, một khát vọng mà một sự chuẩn bị cho tương lai yên ổn chắc chắn sẽ khiến mỗi người tự tin hơn. Và phải chăng qua “ lá cờ đỏ trên con đê” Kim Lân muốn báo trước một ngày mai rạng rỡ hơn, một cuộc đời mới được sưởi ấm bởi ánh sáng của “ ngọn đèn” vĩnh cửu là cách mạng?
2.3. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Vợ chồng A Phủ
a. Số phận bi thảm của con người
Cũng giống như Kim Lân, Tô Hoài dành cho nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ ( 1953) một tình cảm yêu thương, trân trọng vô cùng. Sự trân trọng đó bộc lộ ở những chi tiết tài tình khi miêu tả tâm lý, tình cảm và nỗi cơ cực của nhân vật. Tô Hoài đã rất chắt lọc chi tiết và nhịp văn để nhấn mạnh thêm cuộc sống lao khổ, buồn bã Mị phải chịu đựng. “ Ngày ngày cô ngồi bên một tảng đá, cạnh tàu ngựa, cúi mặt buồn rười rượi”. Người ta đã quên Mị với tư cách nàng dâu của nhà thống lí. Thực chất Mị sống đời nô lệ, chon vùi tuổi xuân, sắc đẹp ở đó. Mị là nạn nhân của đồng tiền và các thế lực phong kiến t cường quyền tàn ác. Mị sống âm thầm, làm lụng quần quật đến nỗi quên mất cả khái niệm thời gian. “ Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Khổ quá, Mị muốn có lá ngón để tự tử, thoát khỏi nhà mồ - nhà thống lý Pá Tra – nhà bố chồng của Mị.
Dàn trải nỗi khổ đau, nhục nhã mà Mị chịu đựng trên trang giấy cũng là nỗi khổ đau của Tô Hoài. Ông viết lên sự thật, mặc dầu rơi lệ, xót xa cho nhân vật. Ông đã không dè dặt tố cáo các thế lực đã đẩy con người vào vực thẳm cuộc đời. Trước ngòi bút của Tô Hoài, cuộc sống yên ổn của người dân miền núi còn là một cái gì đó rất xa xôi.
b. Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt
Chỉ qua đây, chúng ta mới hiểu được rằng người dân vùng cao phải trải qua đau khổ, phải đấu tranh để tồn tại như thế nào. Và Mị là một điển hình của sự phản kháng tất yếu kia, sở dĩ không để cho Mị phải chết là vì ông hiểu một cách thấm thía rằng chính giây phút định tìm đến cái chết là giây phút người ta them được sống hơn bao giờ hết. Mị không thể chết. Mị còn khao khát sống lắm. Mị che dấu lòng khao khát hạnh phúc bằng dáng vẻ lặng lẽ âm thầm nhưng chính nổi nhớ về thuở thanh xuân khi chợt nghe tiếng sáo đã “ chống “ lại cô. Sáu lần tác giả nhắc tới tiếng sáo thì chỉ có ba lần là tiếng sáo thật. Còn ba lần sau là tiếng sáo thức tỉnh trong lòng Mị, tự cất tiếng hát trong lòng Mị.
Có thể nói Tô Hoài đã đồng cảm sâu sắc với khát vọng của Mị, Tô Hoài khám phá ra quy luật của cuộc sống ở nhân thân bé nhỏ của Mị. Ông hiểu điều gì ắt phải đến. Ách của cuộc đời khốc liệt tới đâu cũng không thể chon vùi khao khát cuộc sống tự do, hạnh phúc của Mị. Và Mị phản kháng là điều tất yếu. Sức sống, sức trẻ, tình thương vốn tiềm tang trong cô đã giúp cô đủ sức mạnh để cởi trói cho A Phủ. “ Trời tối lắm, nhưng Mị vẫn băng đi” Mị đi theo A Phủ, chạy trốn từ Hồng Ngài đến Phiềng Sa. Mị đã chứng tỏ được sức sống của con người để giúp thoát khỏi chính số phận cay nghiệt của cuộc đời mình.
Một lần nữa, chúng ta nhận thấy rằng dù ở đề tài nào, góc độ nào, tinh nhân đạo luôn là giá trị cốt lõi. Nhờ có giá trị nhân đạo mà qua hơn nửa thế kỷ nay, người đọc vẫn cảm thấy gắn bó với con người, với tình tiết của câu chuyện. Nỗi khổ cực của con người cùng với khát vọng sống của họ mãi mãi là vấn đề của văn học. Mỗi khám phá mới mẻ của một nhà văn đều nhằm hoàn thiện con người, bản thân họ cũng như cách nhìn của con người với cuộc đời.
3. Kết bài
Tóm lại, qua ba tác phẩm văn xuôi cách mạng trên, ta thấy nổi bật lên rằng giá trị nhân đạo nhân đạo của thời kỳ này không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm thương yêu con người, sự trân trọng phẩm chất tốt đẹp của con người mà các nhà văn đã có ý thức thể hiện, bộc lộ sự chống lại nguyên nhân gây nân nỗi khổ ấy. Đặc biệt, các nhà văn cách mạng đã tìm ra những giải pháp đưa con người ra khỏi bế tắc, tối tăm.
Sở dĩ có được sự chuyển biến to lớn ấy vì thời đại đã đổi khác. Thành công của Cách mạng tháng Tám đóng vai trò mở đường không chỉ trong lịch sử mà còn trong nhận thức của các nhà văn. Những người cầm bút dần dần hiểu rằng cách mạng là chính nghĩa, chỉ có cách mạng mới có thể đem tới hòa bình và hạnh phúc con người. Cốt truyện của cả ba truyện ngắn trên đều vận động theo chiều hướng tích cực, hướng ra ánh sáng: một lá cờ đỏ trên con đê sộp, một cuộc sống mới ở Phiềng Sa khi mà cả Mị lẫn A Phủ đều đi theo cách mạng. Rõ ràng cách mạng đã đổi đời, đã hoán cải cuộc sống. So sánh với một vài tác phẩm văn xuôi 1930 – 1945, thì mặc dù có nhắc, đề cập tới thế lực tàn bạo như bọn địa chủ, cường hào nhưng chưa đầy đủ. Lão Hạc chết, Chí Phèo tự tử, bà cụ già chết vì trúng thực, chị Dậu lao vào màn đêm đen tối, mịt mùng không biết đến ngày mai. Dù đã để lại những tác phẩm giá trị nhưng Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan…chưa nhìn thấy được hướng đi, sự vận động tích cực của cuộc sống.
Vậy là, chủ nghĩa nhân đạo của văn xuôi sau Cách mạng vừa kế thừa chủ nghĩa nhân đạo truyền thống vừa phát huy ở một trình độ cao hơn. Đó là một con đường đã khai thông. Con người lao động đã trở thành người chủ số phận của mình, tìm được hạnh phúc cho mình.