Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết một đoạn văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về tâm hồn yêu thiên nhiên quê hương của Bác Hồ

Viết một đoạn văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về tâm hồn yêu thiên nhiên quê hương của Bác Hồ

2 trả lời
Hỏi chi tiết
165
1
2
Nguyễn Lê Ngọc Minh
05/03/2021 20:06:20
+5đ tặng
(ĐCSVN) - Trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi động, phong phú, nhiều hy sinh, gian khổ của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có 2 lần về thăm quê hương. Toàn bộ tâm trí, sức lực và cả cuộc đời cao đẹp của Người, Người hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Dẫu ở đâu, làm gì, trong hoàn cảnh nào, quê hương Nghệ An, quê hương Nam Đàn luôn tha thiết, canh cánh và đau đáu trong tim Bác.

 Với Hồ Chí Minh, "Quê hương nghĩa trọng tình cao" luôn canh cánh trong tim. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1930 đến trước lúc đi vào cõi vĩnh hằng, Bác Hồ có 9 bài báo, 31 bức thư, 10 bài nói chuyện, 3 bức điện, 2 lần về thăm, 1 lời đề tựa nói đến quê hương Nghệ An hoặc trực tiếp trò chuyện thân tình với nhân dân, cán bộ Nghệ An. Trong số đó, Bác dành cho quê hương Nam Đàn, quê hương Kim Liên 5 bức thư, 1 bức điện, 1 bài nói chuyện, 1 bài báo.

Ngày 17 tháng 2 năm 1949, Bác có thư gửi Đội lão quân huyện Nam Đàn ngay sau khi biết tin Đội lão quân vừa được thành lập. Trong thư, Bác đề nghị đội lão quân của huyện đôn đốc "ba điểm chính" là quân sự, kinh tế, văn hoá. Bác viết "Nói tóm lại: nhiệm vụ chính của Đội lão quân là làm cho phong trào thi đua ái quốc sôi nổi, rộng khắp, thiết thực, bền bỉ để làm cho giai đoạn cầm cự mau thắng lợi và để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc tổng phản công".

Hai tháng sau khi gửi bức thư kể trên, tháng 4 năm 1949, Bác tự tay đánh máy bức thư gửi cho 2 ông Hoàng Phan Kính (là Cậu) và Trần Lê Hữu (là Dượng) của Bác. Mở đầu bức thư là những dòng cảm động, chân tình: "Tôi rất cảm ơn Cậu và Dượng đã gửi thư cho tôi, tôi chưa về được, không phải vì tôi vô tình với quê hương, nhưng vì lẽ này: trong lúc giặc Pháp đang giày xéo trên đất nước ta, thì phận sự của mỗi người dân Việt Nam là "vì nước quên nhà, vì công quên tư". Trong bức thư đó, cùng với những tình cảm họ tộc, gia đình đằm thắm, Bác nhắc nhiều đến trách nhiệm của mỗi người Việt Nam đối với Tổ quốc. Người đề nghị: "Tôi rất mong Cậu và Dượng cùng các cụ phụ lão, các vị thân hào, thân sỹ thường giúp đỡ tôi và Chính phủ bằng cách gửi những phê bình, sáng kiến và đề nghị. Tôi lại mong Cậu, Dượng cùng các cụ, các vị đôn đốc, giúp đỡ đồng bào địa phương xung phong thi đua ái quốc, làm cho Nam Đàn thành một huyện kiểu mẫu, Nghệ An thành một tỉnh kiểu mẫu trong mọi công việc kháng chiến và kiến quốc". Dưới thư, Người ký tên "Cháu Hồ Chí Minh".


 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm ngôi nhà cũ ở quê nội tại làng Sen , xã Kim Liên,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (tháng 12-1961). (Ảnh: TTXVN)

Có một bức điện, giờ đã trở nên bất hủ, rưng rưng tình nhà, chứa chan nghĩa nước. Ấy là bức điện Bác gửi họ Nguyễn Sinh của Bác ngày 9 tháng 11 năm 1950 khi Bác nhận được tin Anh Cả Nguyễn Sinh Khiêm qua đời. Đó là những tháng ngày  Người đang cùng bộ tham mưu của mình dồn sức cho chiến dịch Biên giới: "Nghe tin Anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu, vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc Anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc Anh tạ thế, tôi không thể lo liệu. Than ôi! Tôi chịu tội bất đễ trước linh hồn Anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước". Nội dung bức điện chỉ có 68 chữ, ý tứ, tình cảm, nỗi tiếc thương day dứt, lời cho người đã khuất, lời với người đang sống, tất cả thật hàm súc, không thể viết ngắn hơn, cũng không cần phải nhiều  lời hơn. Theo chúng tôi, đây cũng là một áng bi hùng văn, là một kiệt tác của Bác Hồ mà hình như chúng ta chưa quan tâm nghiên cứu đúng mức.

Với quê hương xã Nam Liên (nay là xã Kim Liên), Bác Hồ có 2 lần về thăm, lần thứ nhất ngày 16 tháng 6 năm 1957, lần thứ hai ngày 9 tháng 12 năm 1961. Lần thăm quê thứ hai tại sân vận động xã Nam Liên, Bác nói chuyện với đồng bào, cán bộ của làng, của xã, của huyện. Đầu tiên, Bác khen ba điều tiến bộ của Nam Liên:

"1. Lần trước Bác về," đèn nhà ai rạng nhà nấy", niêu nhà ai nhà ấy dùng, làm ăn lẻ tẻ. Nay làng đã tổ chức hợp tác xã, đồng bào cùng nhau đoàn kết, luôn luôn giúp đỡ lẫn nhau. Đó là một thay đổi lớn.

2. Lần trước Bác về, chưa thấy có mấy trường này, mà nay đã có cho các cháu trong làng và các làng xung quanh đến học, thành một trung tâm nho nhỏ về văn hoá. Thế là văn hoá tiến bộ.

3. Sự có mặt của các chú bộ đội, dân quân tự vệ hàng ngũ chỉnh tề ở đây cũng chứng tỏ lực lượng quốc phòng của ta tiến bộ..."

Tiếp đó Bác căn dặn mấy điều: "phải củng cố hợp tác xã cho tốt", "phải lao động nhiều", phải thực hành "kỹ thuật cánh tác mới"; Bác cũng thẳng thắn phê  bình: "xã viên thiếu tinh thần làm chủ", "ban quản trị còn quan liêu". Bác yêu cầu làng, xã phải "xây dựng đời sống ngày càng no ấm lên, tức là xây dựng chủ nghĩa xã hội". Bác không quên lưu ý: "Bác nghe nói ở đây có một, hai gia đình xin ra ngoài hợp tác xã vì thiếu sức", "hiện nay cả xã Nam Liên vẫn còn 33 người mù chữ", "các cháu đau mắt hột nhiều, có đúng không?". Bác căn dặn cán bộ, đảng viên : "Xã ta có hơn 230 đảng viên, đoàn viên, phải gương mẫu trong mọi công việc, trong tăng gia sản xuất, trong học tập. Nên như thế, mà phải như thế. Nếu đảng viên không gương mẫu thì không xứng đáng là đảng viên. Đoàn viên cũng thế. Đảng viên, đoàn viên phải giúp đỡ đồng bào tiến bộ". Bác nhấn mạnh: "Làm đúng những điều Bác dặn, là làm cho Nam Liên thành một xã gương mẫu, tức là các cô, các chú đã góp phần vào công việc xây dựng đời sống mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội"... "Cuối cùng, Bác chúc các cụ, các cháu, các cô, các chú và toàn thể đồng bào luôn cố gắng và tiến bộ. Vì Bác đến đây, nên nói đến Nam Liên thôi. Nhưng các xã khác, cả huyện Nam Đàn cũng như thế."

Bác gửi về xã nhà 3 bức thư. Bức thứ nhất, ngày 19 tháng 12 năm 1958 Bác gửi: Kính gửi các cụ "phụ lão diệt dốt" khi biết tin xã nhà đã thanh toán nạn mù chữ và cảm ơn các cụ trong công tác bình dân học vụ. Một bức thư khác, ngày 13 tháng 2 năm 1962, Bác gửi cho đồng bào, cán bộ xã Nam Liên phúc đáp Thư chúc Tết của xã. Trong thư, Bác biểu dương mấy nỗ lực và tiến bộ của xã: "Trồng trọt vượt diện tích, bỏ được thói cấy chay"..."Đảng viên và đoàn viên thanh niên làm gương mẫu tăng thêm ngày công lao động và năng suất lao động". Bác "nêu mấy điểm để đồng bào và cán bộ chú ý", bao gồm: "đoàn kết yêu thương như người trong một nhà...Tư tưởng bảo thủ là những sợi dây cột chân, cột tay người ta, phải vứt nó đi. Muốn tiến bộ phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm".

Ngày 15 tháng 3 năm 1967, tức là hơn 1 năm trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Bác gửi thư cho các cháu học sinh xã Nam Liên. Bức thư ngắn gọn mà tràn ngập tình cảm yêu thương của Bác: "Bác đã nhận được thư của các cháu, Bác rất vui mừng. Các cháu học sinh đã cố gắng thi đua học tập tốt, lao động tốt, góp phần xây dựng quê hương chống Mỹ, cứu nước. Bác hoan nghênh đồng bào, cấp uỷ Đảng, chính quyền, các thầy giáo, cô giáo xã Nam Liên đã chăm lo đến việc dạy và học và đảm bảo tốt phòng không an toàn cho các thầy giáo, cô giáo và các cháu. Bác hôn các cháu! Bác Hồ".

Có một xã ở Nam Đàn vinh dự, tự hào được Bác Hồ gọi là "Xã kiểu mẫu" trong bài viết cùng tên đăng trên Báo Nhân Dân ngày 21 tháng 6 năm 1955. Đó là xã Nam Thượng. Thông tin về xã vùng núi khó khăn nhất của huyện Nam Đàn đến với Bác khá đầy đủ và chi tiết. Bác viết: "Sau trận lụt tháng 9 năm 1954, xã ấy thiệt hại rất nặng. Tiếp đến nạn đói. Song nhờ cán bộ làm đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, khéo lãnh đạo nhân dân, kiên quyết tổ chức sản xuất tự cứu và khuyến khích nhân dân giúp đỡ lẫn nhau". Tiếp đó, Bác nêu các việc tốt ở Nam Thượng: sửa chữa nhà cho đồng bào, nhân dân giúp nhau 11 tấn lương thực, trồng được 100 mẫu ngô, hơn 3500 loại bầu bí, cấy được 115 mẫu chiêm và nhiều hoa màu, tổ chức canh tuần ban đêm, tổ chức đào mương, tát nước chống hạn, chống sâu, chống được giặc đói lại giúp được xã bạn 2 tấn ngô, khoai, đỗ và giúp họ tăng gia sản xuất. Bác kết luận: "Đó là xã kiểu mẫu mà các xã khác nên bắt chước". Bác ký tên dưới bài báo là C.B - một bút danh rất quen thuộc của Người.

Tỉnh Nghệ An - “quê hương nghĩa trọng tình cao” luôn canh cánh trong bữa ăn, giấc ngủ của Bác. Chỉ 15 ngày sau khi Bác đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người có Thư riêng “gửi các đồng chí bản tỉnh” với lời căn dặn ân cần, lòng mong mỏi và nỗi nhớ thương tha thiết. Do bận trăm công nghìn việc của Đảng, của dân để kháng chiến, kiến quốc, Bác chỉ có hai lần ít ỏi và ngắn ngủi về thăm quê hương. Ngày 14/6/1957, Bác Hồ về thăm quê hương lần thứ nhất. Bên đồng chí và người thân, Người xúc động nói: “Quê hương nghĩa trọng tình cao/Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”. Người không quên lối đi nhỏ năm xưa, cây bưởi trĩu quả trước nhà, hàng cau, cây mít, bờ tre phía sau, hàng râm bụt thân thuộc, đặc biệt là chiếc võng tuổi thơ, chiếc rương gỗ nhỏ và khung cửi của mẹ, chiếc phản gỗ và mấy pho sách của cha. Bằng giọng Nghệ nằng nặng, trầm ấm, vang vọng, Bác xúc động nói: “Người ta về thăm quê thì mừng mừng tủi tủi. Tôi về thăm quê thì chỉ thấy mừng mừng!”…, “Là vì: bây giờ nước ta được độc lập tự do, nhân dân được sống cuộc sống hạnh phúc, ai cũng có cơm ăn áo mặc, các cháu được học hành”. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ toàn tỉnh, Người lưu ý cán bộ, đảng viên phải “cần, kiệm, liêm, chính”, “mong muốn nhân dân tỉnh nhà thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm; phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa”. Người nêu rõ: Tiền đồ của mỗi người, nhất là người cách mạng, là nằm trong tiền đồ của dân tộc, nằm trong tiền đồ của giai cấp, không thể tách riêng được. Nhiệm vụ chúng ta phải ra sức củng cố chính quyền nhân dân và củng cố những tổ chức của nhân dân ở các địa phương và quan tâm đến đời sống của nhân dân. Người mong muốn “tỉnh nhà chuyển biến tốt hơn về mọi mặt, nhất là chính trị và kinh tế”. Người khẳng định: “Tỉnh Nghệ An có truyền thống cách mạng. Vậy các cô, các chú có quyết tâm làm cho tỉnh Nghệ An thành một tỉnh gương mẫu không? Quyết tâm không? Làm được không?” Cuối cùng, “Bác nhờ các cô các chú về địa phương chuyển lời Bác hỏi thăm đảng viên, cán bộ và đồng bào địa phương”.  Bốn năm sau, ngày 8/12/1961, Bác Hồ về thăm quê lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng. Trong chuyến về quê, sau khi làm việc với Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Bác đến thăm nhà ăn tập thể của cơ quan. Bác nâng từng chiếc lồng bàn lên để thấy lượng và chất của mỗi khẩu phần. Sau đó các đồng chí lãnh đạo tỉnh mời Bác ăn cơm tối, Bác nhận lời. Bữa cơm lãnh đạo tỉnh mời Bác cũng chỉ có mấy món đơn giản hằng nhật của Bác. Khi mọi người đã ngồi vào bàn ăn, Bác bảo một cán bộ đi cùng mang gói cơm độn ngô đỏ ra. Cơm gói của Bác được chia đều cho mọi người cùng ăn vui vẻ, ngon lành nhưng ý nghĩa thì thật sâu xa, xúc động. Cùng với hai chuyến về thăm quê ngắn ngủi, Bác còn gửi 28 bức thư về quê nhà; mỗi lần các đồng chí lãnh đạo tỉnh nhà ra Hà Nội, Bác đều dành thời gian quý giá gặp gỡ, thăm hỏi tình hình quê hương. Trong bức thư cuối cùng ngày 21/7/1969 gửi Ban Chấp hành Đảng bộ Nghệ An, Bác căn dặn cán bộ, đảng viên cần đề cao chữ Dân, luôn lấy dân làm gốc, “tích cực thực hiện dân chủ với nhân dân hơn nữa”,… “hết sức chăm lo đời sống nhân dân”, khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng Đảng, góp ý kiến về việc chọn người vào Đảng, tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, để mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ngày càng thêm gắn bó máu thịt. Bác yêu cầu cán bộ, đảng viên phải không ngừng “nâng cao đạo đức cách mạng, đổi mới phong cách và phương pháp công tác, “cố gắng sát dân”… “thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất để sửa chữa khuyết điểm và phát huy ưu điểm”. Bác chỉ ra tiềm năng to lớn của đất và người Nghệ An, mong tỉnh nhà “làm ra nhiều lương thực, thực phẩm để nâng cao đời sống nhân dân và đáp ứng yêu cầu cuả Nhà nước, phải đẩy mạnh chăn nuôi và trồng các loại cây công nghiệp để có nguyên liệu cho công nghiệp và hàng hóa xuất khẩu”. Bác lưu ý “có kế hoạch trồng cây và bảo vệ rừng, nhanh chóng khôi phục và phát triển nghề đánh cá, phát triển nghề muối”…Bác nêu một mong muốn, một di huấn cho quê nhà trước lúc đi xa “Nghệ An là một tỉnh rộng lớn, có tài nguyên phong phú, nhân dân cần cù lao động và rất cách mạng. Bác mong đồng bào và đồng chí tỉnh nhà ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất miền Bắc”.

50 năm Bác Hồ đi xa cũng là 50 năm toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ra sức đoàn kết, nỗ lực phấn đấu thực hiện bản Di chúc bất hủ của Bác. Với mỗi cán bộ, đảng viên và người dân ở huyện quê Bác, tỉnh quê Bác, những bức thư, bức điện, bài báo, bài nói chuyện của Người vừa nêu ở trên là những lời di huấn xúc động, thiêng liêng, dài lâu, luôn mang tính thời sự.

Bây giờ, xã Kim Liên quê Bác đã đổi thay mạnh mẽ.  Xã Nam Thượng nhiều khó khăn được Bác Hồ khen ngợi năm nào nay đã phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Nam Đàn đang tập trung  xây dựng nông thôn mới (NTM) kiểu mẫu; phấn đấu đến hết năm 2025 có 7/17 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu và các xã còn lại đạt NTM nâng cao; kêu gọi đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp đối với vùng quy hoạch hơn 2.500 ha gắn với chuỗi chế biến, tiêu thụ.

50 năm thực hiện Di chúc của Bác và bức thư cuối cùng Bác Hồ gửi quê hương, Đảng bộ và nhân dân Nghệ An đã xây dựng tỉnh nhà ngày càng phát triển. Từ một tỉnh thiếu đói, nhiều khó khăn, Nghệ An đã đạt sản lượng lương thực mỗi năm trên một triệu tấn, sản xuất nông nghiệp đi mạnh vào sản xuất hàng hóa và ứng dụng công nghệ cao. Tỉnh đã và đang thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trong nước và quốc tế xây dựng khu kinh tế Đông Nam, các khu công nghiệp ở Bắc Vinh - Nam Cấm, Hoàng Mai - Đông Hồi, Việt Nam - Singapore (VSIP), KCN WHA Nghệ An (Thái Lan), khu nông nghiệp công nghệ cao Phủ Quỳ…Hạ tầng kinh tế-kỹ thuật được xây mới, nâng cấp: Thành phố Vinh, Thị xã Cửa Lò, Thị xã Hoàng Mai; Sân bay quốc tế Vinh; Cảng biển nước sâu quốc tế Cửa Lò -The visai; Đường cao tốc quốc tế Hà Nội - Viêng Chăn (đi qua cửa khẩu Thanh Thủy) - Nghệ An đang được triển khai xây dựng).

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
toán IQ
05/03/2021 20:06:52
+4đ tặng

Bài thơ “Ngắm trăng” được trích trong tập “Nhật kí trong tù”. Tập thơ được viết trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, khi Bác Hồ từ Pác Bó bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Đến thị trấn Túc Vinh, Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, bị đày đọa hơn một năm trời mới được thả tự do. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh, vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên vừa chứng minh cho tinh thần lạc quan yêu đời của Bác trong hoàn cảnh tù đày.

Đọc bài thơ, ta không khỏi cảm phục tinh thần và ý chí nghị lực của Bác trong hoàn cảnh khắc nghiệt gian khó. Chốn lao tù ngỡ chỉ có tối tăm và lạnh lẽo, vậy mà tâm hồn Bác vẫn vượt lên trên những thứ đen tối đó để hướng ra ngoài, đến một thế giới tươi đẹp có thiên nhiên bầu bạn:

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?”

(Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Câu thơ mở ra một hoàn cảnh khắc nghiệt: trong tù không có rượu cũng chẳng có hoa. Điệp từ “vô” (không) lặp lại hai lần càng nhấn mạnh cái hiện thực nghiệt ngã ấy. Uống rượu và thưởng hoa vốn là hai thú vui tao nhã của thi nhân xưa, cũng là chất xúc tác tạo cảm hứng để thi sĩ sáng tác nên những áng thơ trữ tình. Trái ngược với thực tế trốn nhà lao, câu thơ thứ hai vang lên đầy bất ngờ:

“Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.

Theo câu thơ chữ Hán, ba chữ “nại nhược hà”- biết làm sao đây vang lên chất chứa bao băn khoăn và nỗi niềm tâm sự. Bác đối diện với trăng khi không có rượu cũng chẳng có hoa, chỉ có một tâm hồn cao đẹp đang bị kìm hãm tự do sau song sắt nhà tù. Thế nhưng, điều đó không ảnh hưởng đến việc Bác tìm đến thiên nhiên tươi đẹp, hòa mình vào với thiên nhiên đất trời. Vượt lên trên tất cả, Bác đã có một cuộc vượt ngục bằng tinh thần đầy độc đáo: “Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao”.

Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ làm sáng lên phẩm chất của người tù cách mạng: mặc cho hoàn cảnh hiện tại khắc nghiệt gian khổ, Bác vẫn ung dung, tự tại, lạc quan, yêu đời:

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.)

Bác lặng lẽ ngắm vầng trăng qua song sắt của nhà giam. Bức tường nhà lao chật hẹp không thể ngăn cản tâm hồn lãng mạn của Bác tìm đến với vầng trăng xinh đẹp, gửi theo đó khát vọng tự do. Và như để lại tấm chân tình của Bác, vầng trăng đáp lại bằng cách “khán thi gia” qua khung cửa sổ nhỏ. Trăng và Bác đã thực sự trở thành tri âm tri kỉ. Thi sĩ đã không còn lẻ loi giữa đêm khuya thanh vắng ở chốn lao tù lạnh lẽo. Tâm hồn lãng mạng và phong thái ung dung, tinh thần lạc quan ấy cũng thể hiện chất thép trong thơ Hồ Chí Minh: không bao giờ khuất phục thực tại mà luôn tìm cách vượt lên trên thực tại. Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn, một nhân cách lớn vừa có sự tài hoa lãng mạn của thi sĩ, vừa có cái phi thường của người chí sĩ cách mạng.

Vẻ đẹp tâm hồn của Bác dù ở trong hoàn cảnh nào cũng ngời sáng lên những phẩm chất cao cả của một con người vĩ đại. Chính tâm hồn lãng mạn cùng tinh thần lạc quan đã tạo nên sức mạnh giúp Bác vượt qua hết khó khăn này đến khó khăn khác, giữ vững niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư