Trên thi đàn thơ Mới giai đoạn 1932-1941, có thể Tế Hanh không có được sự nổi tiếng mãnh liệt và "lạ lẫm" giống như cái nồng nàn, đắm say của Xuân Diệu, cái điên cuồng, kỳ dị của Hàn Mặc Tử, hay cái cảm xúc "điêu tàn", cuồng loạn của Chế Lan Viên. Và sau cách mạng ông cũng không nổi bật khi so với hồn thơ "chân lý" của Tố Hữu. Thế nhưng, sau những nhà thơ ấy, người ta lại gọi tên Tế Hanh đầu tiên, bởi thơ ông mang đến cho độc giả những cảm giác rất khác, rất mới, độc giả yêu thích và trân trọng thơ ông bởi chính sự "mộc mạc chân thành", cái chất "trong trẻo và giản dị như một dòng sông" luôn trải đều trong suốt cuộc đời làm thơ của mình. Thế nên như nhà phê bình Vương Trí Nhàn nhận định Tế Hanh có thể không thật sự bật lên hẳn so với các đàn anh, nhưng trong sự nghiệp thơ ca của mình ông luôn giữ một phong độ rất ổn định, tập thơ nào cũng có vài bài đáng nhớ, đó chính là một thành công mà không phải nhà thơ nào cũng có được. Quê hương là một trong những bài thơ đầu tay, và cũng là bài thơ xuất sắc nhất của Tế Hanh, đặc trưng cho hồn thơ của tác giả, đặc biệt là khi đọc 8 câu thơ đầu, ta lại càng thấy rõ được sự tinh vi, tài tình của thi nhân trong việc cảm thụ vẻ đẹp của quê hương, vẻ đẹp của cuộc sống lao động.
Với nhan đề "Quê hương" Tế Hanh đã bộc lộ gần như đầy đủ chủ đề chính của tác phẩm, ông viết về quê hương của mình, miền đất mà tác giả hằng gắn bó yêu thương với những cảm xúc giản dị, mộc mạc và chân thành. Lời đề từ "Chim bay dọc biển mang tin cá", là lời thơ do chính thân phụ của Tế Hanh chắp bút viết, chỉ một câu ngắn gọn, với cảnh chim trời, cá biển thế nhưng nó đã bổ sung một cách chuẩn xác cho nhan đề "Quê hương" của tác giả, gợi mở ra chủ đề chính của bài thơ là một vùng đất ven biển, cuộc sống quanh năm gắn bó với nghề chài lưới, quen với sự xuất hiện của cánh hải âu, quen với mùi gió biển mặn mòi. Có thể nói rằng cánh chim trong lời đề từ đã mở ra một khung trời rộng lớn, tự do, mở ra một vùng biển bao la sóng nước, dồi dào cá biển, rất đẹp, rất thơ.
Trong hai câu thơ đầu tiên của tác phẩm, Tế Hanh đã dùng một chất giọng mộc mạc và chân thành để mở ra những hình ảnh đầu tiên về quê hương:
"Làng tôi vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông"
Có vẻ giống một lời tự sự không hơn, và quả nhiên nó đúng là vậy. Tế Hanh là thế, không ưa cầu kỳ kiểu cách, cũng không thích lồng ghép từ ngữ khó hiểu. Ở hai câu thơ này tác giả chỉ là đơn giản kể lại những ấn tượng của mình về quê nhà, đó là một nơi mà quanh năm con người gắn bó với nghề chài lưới đầy vất vả, cực nhọc. Với đặc điểm địa lý "nước bao vây cách biển nửa ngày sông", khiến người đọc hình dung ra một vùng đất nổi lên giữa sóng nước mênh mông. Đặc biệt lối ước chừng khoảng cách "nửa ngày sông" mang đến cho người đọc những ấn tượng về đặc trưng ngôn ngữ của dân miền biển.
Đến 6 câu thơ tiếp theo Tế Hanh miêu tả lại cảnh ra khơi của dân chài, với những câu thơ đẹp, bình dị và tự nhiên, trẻ trung giống như chính tâm hồn của chàng thi vừa đầy 20.
"Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá"
Hai câu thơ là những nét vẽ đầy hứng khởi, năng động, mở ra khung cảnh ra khơi đầy thuận lợi. Đó là một buổi sáng trong trẻo với bầu trời cao rộng, trong xanh, kết hợp với sự mát mẻ của những cơn gió nhẹ, vừa đủ làm căng cánh buồm đẩy thuyền ra khơi. Đặc biệt gam màu "hồng" của ánh bình minh, mang đến cho không gian cảm giác ấm áp, tươi sáng, đầy hứa hẹn, mang đến cho bài thơ sự lãng mạn tinh tế, bởi cách phối màu đơn giản, tự nhiên, nhưng rất thơ mộng. Bên cạnh vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên thì con người lại xuất hiện với vẻ đẹp mạnh mẽ, khỏe khoắn, tràn đầy khí thế "bơi thuyền đi đánh cá". Dù thực tế họ không trực tiếp chèo thuyền ra khơi, nhưng cách viết của Tế Hanh đã mang đến cho độc giả những liên tưởng chân thực, thú vị về các chàng trai cơ bắp, nước da ngăm, đầu cột chiếc khăn mỏng, tay cầm mái chèo, hăng hái tiến ra biển khơi, làm nổi bật lên đặc điểm nghề nghiệp của họ.
"Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió..."
Đến bốn câu thơ tiếp theo, Tế Hanh đã rất tinh tế khi tái hiện công cuộc ra khơi của những người dân làng chài bằng việc miêu tả chiếc thuyền ra khơi, lấy chiếc thuyền làm hình tượng đại diện cho cả một tập thể những con người lao động. Đây có thể nói là sự sáng tạo tinh tế và chuẩn xác của tác giả, bởi vốn dĩ chẳng có một hình ảnh nào đặc trưng hơn hình tượng con thuyền, khi nói về công cuộc đánh bắt biển khơi của ngư dân nữa. Tế Hanh với ngòi bút mộc mạc và hồn thơ trẻ, nên cũng không cầu kỳ mà lựa chọn sử dụng thủ pháp so sánh kinh điển trong thi ca để làm nổi bật khí thế ra biển đầy hăng hái và mạnh mẽ trong hai câu "Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã/Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang". Đó là một cách liên tưởng độc đáo, bởi có thể thấy rằng hàng ngàn năm nay thiên nhiên đối với con người vừa nghiêm khắc lại vừa bao dung, thế nên mỗi một lần ra khơi là một lần vượt qua thử thách của ngư dân, thiên nhiên nặng lòng cho ta cá, nhưng cũng muốn ta gặp nhiều gian nan. Và đối với mỗi người ngư dân, biển cả cũng là chiến trường, ở đó họ phải bộc lộ sự mạnh mẽ, quyết đoán như những người lính thực thụ. Lấy mái chèo, lấy lưới cá làm vũ khí, lại xem con thuyền chính là chiến mã, là khôi giáp để chiến đấu mà mang về chiến lợi phẩm. Thế nên Tế Hanh ví chiếc thuyền với tuấn mã là hoàn toàn hợp lý và tinh tế, nó không chỉ đem đến cho người đọc cảm nhận về hào khí biển Đông của người ngư dân, mà nó còn là cảm giác lãng mạn bay bổng trong thi ca xưa - người anh hùng và chiến mã. Không chỉ độc đáo ở hình ảnh so sánh mà, cách dùng từ của Tế Hanh cũng đáng chú ý, những từ "hăng", "phăng" không chỉ gieo vần cho tác phẩm, mà còn bộc lộ sự mạnh mẽ, dứt khoát, khí thế hùng tráng trong công cuộc ra khơi của người ngư dân. Với câu thơ "Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt Trường giang", thì tuy không thấy xuất hiện hình ảnh con người nhưng với hai động từ mạnh "phăng" và "vượt" đã tái hiện một cách tinh tế tầm vóc và sức mạnh của con người trong công cuộc lao động. "Trường giang" tức là con sông lớn và dài, mà ở đây con thuyền lại dễ dàng "mạnh mẽ vượt Trường giang", từ đó có thể suy ra Tế Hanh đã sử dụng hình ảnh "trường giang" như là một bức phông nền, một bệ phóng hoàn hảo để làm nổi bật vẻ đẹp sức mạnh và tầm vóc lớn lao của con người trước thiên nhiên, con người chế ngự thiên nhiên để sinh tồn.
Trong hai câu thơ tiếp theo, cũng là những câu thơ đặc sắc nhất bài, Tế Hanh đã bộc lộ cho độc giả thấy sự tinh tế, tài tình làm nên nét riêng của bản thân khi viết về đề tài quê hương, một đề tài quá quen thuộc trong thi ca.
"Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng"
Một lần nữa dùng thủ pháp so sánh, và có lẽ Tế Hanh đã làm độc giả ngỡ ngàng và phải thầm khen vì cái tinh tế hiếm có và khả năng liên kết đặc biệt của mình khi đem "cánh buồm giương to" so với "mảnh hồn làng". Rõ ràng đó là một so sánh lạ nhưng rất đỗi hợp lý, lạ ở chỗ tác giả đem cái hữu hình đi so với cái vô hình, vô vẻ, từ đó dễ dàng phác họa ra nét chân dung của hồn quê hương. Nó lại hợp lý bởi so với những vật dụng khác gắn với đặc trưng của một miền biển như thuyền bè, mái chèo, lưới cá, hoặc đại loại là một cái gì đó thì cánh buồm trắng là vật phù hợp hơn cả. Bởi nó mang vẻ đẹp lãng mạn và thi vị, lại mang đầy đủ tính biểu tượng về một miền quê quanh năm gắn bó với biển cả, với thuyền buồm, vừa vặn gánh lấy cái "hồn làng". Hơn thế nữa xét về một mặt lô-gic khác của Tế Hanh thì con thuyền đại diện cho ngư dân lao động, người ngư dân gắn bó với quê hương, còn cánh buồm lại chính là linh hồn của chiếc thuyền. Con người sống chẳng thể thiếu quê hương, con thuyền không thể đi xa nếu thiếu cánh buồm, vì vậy nếu nói cánh buồm chính là đại diện cho một mảnh hồn làng chẳng có gì là không hợp lý. Cánh buồm ấy mang theo dáng vẻ, nỗi nhớ, niềm hy vọng của quê hương để theo người ngư dân vượt biển, luôn nhắc nhở ngư dân về tình yêu tha thiết đối với quê nhà. Không chỉ mang ý nghĩa biểu tượng, mà Tế Hanh còn nhân hóa cánh buồm, tạo cho nó linh tính của con người, dường như trong công cuộc lao động của người ngư dân, cánh buồm lúc nào cũng sát cánh, góp sức khi "rướn thân trắng bao la thâu góp gió", để giúp con thuyền đi nhanh hơn, xa hơn đến vùng nhiều tôm cá. Bộc lộ tinh thần đoàn kết trong lao động của con người, sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý giữa con người với nhau và giữa con người với công cụ lao động để tạo năng suất lao động lớn.
Quê hương của Tế Hanh là một bài thơ hay và độc đáo, tuy khi viết bài thơ này ngòi bút của tác giả còn non trẻ, thế nhưng người cũng đã bộc lộ được sự tinh tế, thấu cảm của bản thân với quê hương, để tạo ra một tác phẩm đáng chú ý giữa một rừng thơ Mới. Nhận xét về Tế Hanh có lẽ tâm đắc và thú vị nhất chính là lời của Hoài Thanh, ông viết rằng: "Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương... Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy mờ mờ...". Và quả thực đọc Quê hương ta thấy Hoài Thanh nói không hề quá chút nào...