Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Các bạn muốn về Phật hay về đạo

Các bạn ơi cho mình hỏi 4 câu hỏi

Các bạn muốn về Phật hay về đạo

Hãy tóm tắt về cuộc đời chúa giêsu

Phật tạo ra chúa hay chúa tạo ra Phật

Hãy tóm tắt gọn về đời chúa Giê-su và mẹ Maria và Phật

Ai nhanh ai đúng mình tik cho

1 trả lời
Hỏi chi tiết
483
2
0
..........?
14/04/2021 08:01:26
+3đ tặng

câu 1 :mik thì về đạo phậy nhé

câu 2 : ko ai tạo ra ai vì mỗi dạo có mỗi tín ngưỡng khác nhau, ko liên quan tới việc ai sinh ra ai

câu 3:Chúa giê su

Tên Jesus tức là Đấng cứu nhân loại. Chúa Jesus sinh vào rạng sáng ngày hai mươi lăm tháng mười hai ở Bê Lem, miền Giu Đê, thời vua Hê-rô đê,cha la Giu Se thuộc con cháu dòng dõi Đa-vít, làm nghề thợ mộc ,mẹ là Ma-ri-a lo việc nhà.

Chúa Jesus sống quy ẩn ở Na za rét, nước Do Thái, người trưởng thành trong cuộc sống khó khăn, được giáo dục như những đứa trẻ đồng tuổi, đặc biệt là học hỏi Thánh Kinh, Ngài học nghề thợ mộc cùng thánh Jesus.

Lên mười hai tuổi, đã xuất hiện 1 biến cố lúc Chúa Jesus theo gia đình tới đền thờ mừng lễ vượt qua, khi kết thúc kỳ lễ, Ngài đã không về với gia đình mà ở lại Giê ru sa lem ngồi nói chuyện với những thầy luật sĩ vừa nghe vừa thắc mắc làm nhiều người kinh ngạc về trí tuệ và các lời đối đáp của Ngài. Tiếp theo Ngài trở về với gia đình và hằng vâng phục Đức Mẹ và Thánh Jesus.

Tới năm ba mươi tuổi Chúa Jesus rời khỏi nhà ,khởi sự đi rao giảng tin mừng và tiến hành ơn cứu độ. Lúc tất cả mọi người chịu phép rửa ,Đức Chúa Jesus cùng chịu phép rửa ở sông Gio đan ,sau khi vừa ở dưới nước lên thì trời mở ra ,và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dạng như chim bồ câu. Lúc Đức Chúa Jesus được đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần từ sông Gio đan trở về thì được Thánh Thần dẫn đi trong sa mạc ,không ăn mặn ,cầu nguyện bốn mươi ngày đêm ,chịu quỷ ma dụ dỗ ,quỷ ma đã sử dụng mọi phương để cám dỗ Người nhưng vẫn không được , quỷ bỏ đi, đợi chờ cơ hội. Được quyền năng Chúa Thánh Thần thúc đẩy , Đức Giê Su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người được lan truyền khắp, Ngài giảng dạy ở những hội đường của họ , sử dụng các ngụ ngôn giảng dạy và được những người ở đó yêu thích.
Người đã sử dụng công năng của mình đi giảng dạy nhiều nơi và trị lành cho nhiều người bị quỷ ám, bệnh tật ,bị phong hủi ,tật nguyền được trị hết , người điếc được nghe ,người mù được thấy ,người câm nói được ,người què được đi và người chết sống lại…

Chúa Jesus thành lập Hội Thánh để ban phước cho con người: bắt đầu, Đức Chúa Jesus tụ hợp 12 người lại làm Tông Đồ, giảng dạy và ban cho họ năng lục và phép thuật để chống lại quỹ ma và trị những bênh tật. Chúa đã để Phê Rô làm đầu và chình công Đoàn này là hạt nhân làm lớn mạnh Hội Thánh Người sai họ đi rao giảng nước Thiên Chúa và trị hết bệnh cho chúng sinh.

Chúa Jesus đã làm nhiều phép màu để minh chứng cho sứ mạng của Ngài, Ngài phải chịu nhiều khổ đau bởi những kỳ mục, những thượng tế mà kinh sự tạo nên. Chúa Jesus là Đấng Cứu Thế , Ngài mang tới sự sống cho con người tuy nhiên Chúa lại bị người đời sát hại, giáo lý chúa có nhiều điều ngược ý nghĩa và thói tục dân gian, Chúa vạch trần lối sống giả tự mãn của biệt phái… Do vậy rất nhiều người ghét.

Những Luật sĩ và biệt phái canh chừng để bắt bẻ Ngài trong từng câu nói và cư xử. Có rất nhiều người bất mãn do lời Chúa giảng dạy đến độ có lần họ đẩy Chúa khỏi Hội đường , kéo Ngài lên trên núi ,có ý đẩy Người xuống vực thẳm. Gần cuối cuộc đời ,chúa Jesus lên Giê ru sa lem mừng lễ vượt qua , lúc Chúa vào thành được người dân chào đón như vị vua khải hoàn. Tuy nhiên, cũng chính vinh dự đó thúc bách những kẻ thù dứt khoát ra tay tàn sát Ngài. Biết vậy , Chúa tạo thời gian sống thân thiết sau cùng với những môn đệ.Trong buổi ăn tối Vượt Qua với họ ,Chúa Jesus hoá bánh và rượu trở thành Mình và Máu Người cách nhiệm mầu để ở lại với họ và những ai Chúa yêu trong tất cả thời đại. Chúa còn rửa tay cho những môn đệ để dạy họ bài học thương yêu phục vụ. Lúc đêm khuya ,Chúa vào vườn Cây Dầu nguyện cầu.Giu đa ,1 trong mười hai môn đệ ,đã phản bội do ham tiền ,ông sử dụng cái hôn tình nghĩa để chỉ điểm cho lính bắt Chúa. Chúa bị Philato lên án tử hình. Chúa bị đưa cho những luật hình ,chúng đánh đập ,nhạo báng ,ấn vòng gai lên đầu Ngài như mũ triều thiên,bắt Ngài vác thập giá lên Núi Sọ. Vào giữa trưa chúng đóng đinh Ngài vào thập giá cùng với 2 kẻ trộm cướp. Ngài đã mất vì cực hình tàn ác đó lúc ba giờ. Lúc tối ,Ni- cô- đê- mô tới xin Philato cho tháo xác Người , xác Nài được chôn cất trong mồ ,còn linh hồn thì xuống ngục tổ tông để loan báo Tin Mừng giải cứu cho các công chính đã mất trước lúc Ngài đến.Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định ngày thứ 3 Ngài đã sống lại như Người đã nói trước. Sau khi sống lại ,Chúa Jesus còn hiện ra giáo huấn ,an ủi những môn đệ trong bốn mươi ngày ,sai họ đi rao giảng Tin Mừng rồi Ngài lên trời , ngự bên hữu Chúa Cha. Rồi Ngài sẽ trở lại trong niềm vui để phán xét người sống và người chết

Phật:

Cách đây hơn 2500 năm ở thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), nước Ấn Độ (India) có vị vua tên là Tịnh Phạn (Suddhodana) và bà Hoàng hậu tên là Maya. Thành Ca Tỳ La Vệ nằm giữa biên giới nước Nepal và Ấn Độ bây giờ. Những di tích lịch sử của đức Phật đã được  di sản văn hóa thế giới Unesco khai quật và công nhận.
Một hôm, bà Hoàng hậu nằm chiêm bao thấy con voi trắng sáu ngà chui vào bên hông phải của bà. Bà đã đem điềm chiêm bao kể lại cho các quan thần trong triều đình nghe. Ai cũng đoán đây là điềm lành. Chẳng bao lâu, bà mang thai một hoàng thái tử. Theo phong tục truyền thống Ấn Độ, khi người vợ sanh con là về nhà mẹ ruột. Do đó, Khi sắp tới ngày sanh, Hoàng hậu đi về quê mẹ để sanh Thái tử. Trên đường về quê mẹ, Hoàng hậu đi ngang qua khu rừng Lâm Tỳ Ni (Lumbini) có một vườn hoa Vô Ưu.Theo truyền thuyết Ấn Độ thì hoa này 1000 năm mới nở một lần. Vì thế, Hoàng hậu đã dừng chân ở đây để ngắm nhìn hoa. Bà giơ tay lên định hái một bông hoa. Đột nhiên, bà chuyển bụng liền hạ  sanh ra Thái tử.
Thái tử được sanh ra dưới cây Vô Ưu vào ngày 15 tháng 04 ÂL năm 624 trước tây lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini).
 
Nay vẫn thuộc lãnh thổ nước Nepal. Vua cha đã đặt tên Thái tử là Tất Đạt Đa hay còn gọi là Sĩ Đạt Ta (Siddhattha). Hoàng hậu sanh ra thái tử được bảy ngày thì băng hà và thác sanh lên cõi trời Đao Lợi. Bởi vậy, người em gái của bà là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề làm dì mẫu nuôi thái tử.
Theo hình tượng, Thái tử ra đời đi bảy bước và tay phải chỉ lên trời và tay trái chỉ xuống đất.
- Ngài đi bảy bước là tượng trưng cho đã có bảy vị Phật ra đời trên trái đất này. Ngài là vị Phật thứ bảy.
Bảy vị Phật đó là: 1) Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật; 2) Thi Khí Phật; 3) Tỳ Xá Phù Phật; 4) Câu Lưu Tôn Phật; 5) Câu Na Hàm Mâu Ni Phật; 6) Ca Diếp Phật; 7) Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Ngài tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất và nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, nghĩa là “ Trên trời dưới đất, chỉ có cái ngã được tôn quý, ngã ở đây hàm ý là Phật tánh (Tánh giác ngộ)”.
          Thái tử lớn lên học thông suốt các môn và tài giỏi mọi mặt, đặc biệt là Thái tử rất thương người và loài vật. Khi còn nhỏ, thái tử thường hay thích ngồi tĩnh lặng một mình. Khi trưởng thành lúc 16 tuổi năm 608 trước tây lịch, thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La (Yasodhara). Hai vợ chồng sanh ra một người con trai tên là La Hầu La (Rahura).
          Một hôm Thái tử xin vua cha ra kinh thành để dạo chơi khắp bốn cửa thành. Thái tử đến cửa thành thứ nhất, thì chợt thấy một cụ già chống gậy đi rất khổ sở và thái tử hỏi người hầu: “Tại sao người nầy già nua như vậy?”. Người hầu trả lời: “Thưa Thái tử! Ai sanh ra rồi cũng phải già khổ như vậy, không ai thoát khỏi cả”. Viếng cửa thành thứ hai, Thái tử thấy một người bệnh nằm đau đớn. Thái tử hỏi người hầu: “Sao người nầy bệnh vậy?”. Người hầu trả lời: “Thưa Thái Tử! Bệnh không tha cho ai hết. Già trẻ bé lớn gì cũng bị bệnh hết, không ai thoát khỏi cái bệnh cả”. Tiếp đến là cửa thành thứ ba, Thái tử chứng kiến một người chết đang hỏa thiêu. Thái tử hỏi người hầu: “ Sao người nầy chết thiêu như vậy?”. Người hầu đáp: “Thưa Thái tử! ai sanh ra rồi cũng phải già, phải bệnh. Bệnh là nguyên nhân đưa đến cái chết. Chết là kết thúc kiếp người. Thái tử cũng không thoát khỏi cái chết nầy”. Cuối cùng đến cửa thành thứ tư, Thái tử gặp một vị tu sĩ. Thái tử đến hỏi vị tu sĩ: “Tu tập thiền quán để làm gì?”. Vị tu sĩ trả lời: “Thưa Thái tử! tu tập thiền quán có thể giúp chúng ta thoát ly cái khổ sanh, già, bệnh và tử, thoát ly sanh tử luân hồi”. Sau khi nghe vị tu sĩ giảng dạy về con đường giải thoát sự vô thường lão bệnh, Thái tử giác ngộ, thấy được sự thật giả tạm của cuộc đời. Vì khi thân nầy chết đi, thì tất cả sự nghiệp của cuộc đời mất hết. Chỉ còn cái nghiệp thiện ác theo chúng sanh thôi. Qua đó mới thấy rằng thân nầy giả tạm, nên cuộc đời cũng chỉ tạm bợ mà thôi. Vì lý đó, thái tử đã quyết định về cung điện xin vua cha cho đi xuất gia tầm sư học đạo, nhưng vua cha không đồng ý, vì nhà vua chỉ có một đứa con trai là Thái tử để nối ngôi.
Cuối cùng, Thái tử nữa đêm trốn ra kinh thành đi xuất gia tầm sư học đạo. Thái tử đi xuất gia lúc đó 19 tuổi, vào ngày 08 tháng 02 âm lịch năm 605 trước tây lịch. Thái tử đã tu học thiền định với nhiều vị thiền sư trong suốt 5 năm và đã thành tựu các bậc thiền ở cõi trời sắc giới và cõi trời vô sắc giới. Sau đó, Thái tử tu tập thiền quán 6 năm với 5 anh em Kiều Trần Như ở núi Tượng Đầu hay còn gọi là Khổ Hạnh Lâm. Trong thời gian tu tập nầy, Thái tử siêng năng tu tập và sống trong đại định. Vì thế, Thái tử quên ăn bỏ ngủ và đến lúc kiệt sức. Cũng may, nhờ nàng Suyata đi chăn bò đã phát tâm cúng sữa cho Thái tử, trong lúc Thái tử hết sức. Nàng Suyata là người cúng dường đầu tiên cho đức Phật.
Ngày 08 tháng 12 ÂL năm 594 trước tây lịch, lúc 30 tuổi, Thái tử ngồi thiền quán 49 ngày dưới cây Bồ Đề và đã thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), thành phố Gaya, thủ đô Patna, nước Ma Kiệt Đà (Magadha), tiểu bang Bihar, nước Ấn Độ.
Sau khi thành đạo, Ngài đi đến vườn Lộc Uyển (Sarnath), thành Ba Na Đại (Varanasi) thuyết bài pháp đầu tiên “Tứ Diệu Đế” cho 5 anh em Kiều Trần Như. Năm anh em đồng tu nầy sau khi nghe bốn chân lý đều giác ngộ chứng quả A La Hán. Bài pháp “Tứ Diệu Đế” là bài pháp đầu tiên.
Kế tiếp Ngài đi đến Thành Vương Xá –Rajgir, nước Ma Kiệt Đà (Magathda), nơi trị vì của vua Tần Bà Sala và hoàng hậu Vi Đề Hi. Đức  Phật hóa độ và quy y Tam Bảo cho vua Tần Bà Sa La (Bimbisala)Đây là vị vua đầu tiên được đức Phật hóa độ. Sau đó, vua đã phát tâm cúng dường đức Phật miếng đất làm Tịnh Xá và được gọi là Trúc Lâm Tịnh Xá. Đây là tịnh xá có đầu tiên.
 
            Ông Cấp Cô Độc là người giàu có, rất có lòng thánh thiện giúp đỡ những người khổ, cô đơn. Ông sống trong thành Xá Vệ (Sravasti) do vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) trị vì đương thời. Ông đã cúng dường cho đức Phật tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana) ở thành Xá Vệ. Đây là tịnh xá thứ nhì đức Phật thành lập cho Tăng chúng tu học.
Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Maha Pajapati) là dì Mẫu của đức Phật đã được xuất gia ở thành Tỳ Xá Ly (Vajsali), cùng với 500 kỷ nữ. Bà là người Ni đầu tiên được đức Phật cho xuất gia và Ni đoàn được thành lập từ nơi đây.
Sau khi thành đạo, đức Phật thuyết pháp độ cho các vị vua quan cho đến dân chúng, các từng lớp trong xã hội, từ người xuất gia cho đến tại gia khắp nơi trong suốt 49 năm. Ngài đã viên thành việc hoằng pháp lợi sanh và thành lập Tam Bảo. Ngài đi về vùng Câu Thi Na (Kushinagar), thủ đô Pava, Xứ Malla, nhập đại định và an trú niết bàn dưới cây Sala Song Thọ.   Ngài nhập niết bàn lúc đó 80 tuổi, vào ngày 15 tháng 02 ÂL năm 544 trước tây lịch.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Lịch sử Lớp 4 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo