khát vọng tự do là 1 trong những tư tưởng phổ biến nhiều trong các tác phẩm thơ ca hiện đại Việt Nam trước năm 1945 hãy làm sáng tỏ điều đó qua 2 bài thơ nhớ rừng(đoạn đầu) và khi con tu hú(đoạn cuối)
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Khát vọng tự do luôn là đề tài lớn của các nhà thơ, nhà văn trong giai đoạn 1930 – 1945. Nó là sự thôi thúc, niềm trăn trở của nhân dân ta nói chung và của các nhà thơ nói riêng. Mỗi nhà thơ bộc lộ niềm khao khát tự do của mình theo một cách, làm cho tiếng nói tự do càng trở nên phong phú. Thế Lữ và Tố Hữu, bằng một số bài thơ, cũng đã góp những tiếng thơ khao khát tự do thật tha thiết.
Giữa cảnh đất nước nô lệ, Thế Lữ đã mượn hình ảnh con hổ, vị chúa tể của rừng xanh bị giam cầm trong vườn bách thú để nói lên niềm khao khát tự do, nuối tiếc một quá khứ huy hoàng của mình trong bài Nhớ rừng.
“Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt”.
“Khối căm hờn” đó ngày một lớn dần, cùng với nỗi “nhớ rừng”, nhớ những kỉ niệm vàng son mà giờ chỉ còn là trong kí ức thôi:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối”.
Dòng hồi tưởng của con hổ được thể hiện qua những kỉ niệm huy hoàng, kết hợp với các câu hỏi tu từ làm bài thơ trở nên sâu sắc hơn. Các từ “nào đâu”, “đâu những” được Thế Lữ dùng như để chỉ những kỉ niệm đã tuột khỏi tay rồi, không gì lấy lại được. Nỗi nuối tiếc đó càng lớn dần lên, nhớ thời, xưa, ta là chúa tể sơn lâm, nhớ những ngày mưa chuyển bốn phương, những tiếng chim ca, tiếng bước chân mạnh mẽ… Tất cả, tất cả như va đập trong trí nhớ của con hổ, và kiêu hãnh làm sao khi:
“Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật”.
Vậy mà giờ đây, giữa lồng cũi, ta chỉ làm “trò mua vui cho thiên hạ”. Ôi, thời xa xưa… ! Nỗi nuối tiếc, niềm khát khao tự do lại được chúa sơn lâm gầm lên ở câu kết:
“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”.
Thời “oanh liệt” ấy chẳng còn đâu nữa, chỉ còn lại hổ với tiếng gầm thét đòi tự do thật quá mãnh liệt.
Hình ảnh con hổ bị cầm tù phải chăng chính là hình ảnh của cả một dân tộc đang sống trong cảnh tù đày, nô lệ? Tiếng gầm đó chính là niềm khát vọng, thôi thúc con người tìm đến chính mình ở một thế giới bình đẳng, bác ái. Nhà thơ Thế Lữ đã thành công khi chọn hình ảnh con hổ bị tù đày để nói lên khát vọng rực cháy muốn tìm tự do của cả một lớp người.
Bằng sự cảm nhận sâu sắc của một người tù phải chịu cảnh sống mất tự do, Tố Hữu đã viết:
“Khi con tu hú gọi bầy”
Tiếng gọi vang dội từ bên kia song sắt, nhà thơ như cảm nhận được hè về trải dài trên những đồng cỏ, những ruộng lúa, và bầu trời tự do:
“Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”
Ước gì nhà thơ có thể như những con chim kia, có thể tung cánh khắp bốn phương trời. Nhưng mọi sự chỉ là cảm nhận mà thôi, bốn bức tường, song sắt nhà tù đã ngăn cách nhà thơ với thế giới bên ngoài. Sự thiếu tự do, ụất hận trào dâng:
“Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!”.
“Hè ôi!”, câu thơ như than vãn về một sự việc không thể thực hiện được:
“Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu! ”
Hai câu thơ thể hiện sâu sắc tâm trạng của nhà thơ, khi sống thiếu tự do, con người có thể “chết uất thôi”. Tiếng chim tu hú vẫn cứ kêu. Mở bài và kết bài đều là tiếng chim tu hú râm ran gọi hè. Nhưng, câu mở diễn ra với một không gian tự do còn câũ kết lại chính là tiếng gọi của tự do. Con chim vẫn cứ kêu lên, dù chỉ là khắc khoải, nhưng nó vẫn cố bám lấy một tia hi vọng, một tiếng “tự do”.
Nếu như nhà thơ Thế Lữ rất thành công khi mượn hình tượng con hổ thì Tố Hữu cũng gây được ấn tượng không nhỏ trong người đọc về hình ảnh con chim sẻ bé nhỏ trong bài Con chim của tôi. Con chim sẻ không to lớn, không đầy sức mạnh như vị chúa sơn lâm nhưng nó cũng cần có tự do. Và nó đã gục chết khi bị giam cầm trong chiếc lồng chật hẹp. Ngày hôm qua, khi chưa bị giam cầm, “nó hãy còn bay nhảy”, vậy mà “chỉ một ngày giam đã chết rồi”. Tác giả đã nói lên băn khoăn, day dứt của mình qua những câu hỏi tu từ sâu sắc. Nếu ở khổ thơ đầu là lời băn khoăn thì ở khổ thơ thứ hai là lời tự vấn:
“Tôi đã tù, sao bắt nó tù? ”
Nỗi băn khoăn dần chuyển thành lời day dứt của một kẻ tù mà không nhạy cảm với sự tù. Và cái chết của con chim nhỏ đã được giải thích ở khổ thơ sau: nó chết vì thiếu “mây gió”, không được “uống ánh trời”. Ở trong tù, con chim nhỏ không phải kiếm ăn, người tù đã nhường cơm cho nó. Nhưng không gì có thê thay thế được tự do. Bài thơ với những câu hỏi tu từ láy đi láy lại như nhức nhối, đớn đau vì sự “vỡ nhẽ” dần dần cái giá trị vô giá của tự do. Bởi vì mất tự do thì ngay đến con vật nhỏ bé cũng không sống nổi huống hồ là con người. Người ta không chỉ cần tự do cho cuộc sống vật chất mà hơn thế nhiều, tự do cho cuộc sống tinh thần.
Thơ ca giai đoạn 1930 – 1945 này đã xuất hiện nhiều bài thơ nói lên khát vọng tự do đến cháy bỏng của mỗi người dân Việt. Niềm khát khao tự do ấy cũng được thể hiện khá thành công trong các tác phẩm Nhớ rừng (Thế Lữ), Con chim của tôi, Khi con tu hú (Tố Hữu).
Tham gia Cộng đồng Lazi trên các mạng xã hội | |
Fanpage: | https://www.fb.com/lazi.vn |
Group: | https://www.fb.com/groups/lazi.vn |
Kênh FB: | https://m.me/j/AbY8WMG2VhCvgIcB |
LaziGo: | https://go.lazi.vn/join/lazigo |
Discord: | https://discord.gg/4vkBe6wJuU |
Youtube: | https://www.youtube.com/@lazi-vn |
Tiktok: | https://www.tiktok.com/@lazi.vn |
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |