Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của anh chị về nhân vật ông Hai trong đoạn trích sau

Mn làm nhanh hộ mình với ạ.Mình đang cần gấp!!!
 

3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
422
1
0
Nguyễn Thị Thu Hà
01/06/2021 21:25:44
+5đ tặng
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn gắn bó và am hiểu về cuộc sống nông thôn, nhà văn hầu như chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của nông dân. "Làng" là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân miêu tả tâm trạng đau xót, tủi hổ của ông Hai ở nơi tản cư khi nghe tin đồn làng theo giặc, niềm tự hào, vui sướng khi tin làng được cải chính, qua đó thấy được tình yêu quê hương, tình yêu kháng chiến của người nông dân.

Ông Hai là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân chất ở làng Chợ Dầu. Nhưng để phục vụ cho kháng chiến gia đình ông phải tản cư đến một nơi ở khác. Ban đầu, ông có ý định để cho vợ con đi thôi, còn ông thì ở lại phụ giúp anh em kháng chiến. Tuy nhiên, vì bận bịu chăm lo cuộc sống gia đình, chỉ một mình vợ con sẽ không kham nổi, ông buộc lòng bấm bụng phải di dời chốn ở. Dù xa làng, nhưng niềm tự hào của ông Hai về làng chưa phút nào nguôi. Ở nơi tản cư, ông thường hay qua nhà hàng xóm, khoe về làng của mình đẹp thế nào, đổi mới thế nào, con người ra sao... Ông thường hay nghĩ ngợi, nhớ về làng Chợ Dầu. Ông nghĩ về những ngày làm việc với anh em, bỗng thấy sao muốn về làng. Ông muốn về làng cùng phụ giúp anh em "đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá,...", bâng khuâng không biết "cái chòi gác đầu làng đã dựng xong chưa?" hay "Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm." Rồi tự nhiên, bao nhiêu kỉ niệm, cảm xúc ùa về làm ông nhớ cái làng, "nhớ cái làng quá!", khao khát được trở về nơi chôn rau cắt rốn chợt trỗi dậy trong lòng ông. Trời nắng như thiêu như đốt, nhưng, cứ đều đặn, không sót hôm nào, ông Hai cũng đến phòng thông tin nghe đọc báo. Vì không biết chữ, nên ông phải chờ có người đọc lớn tiếng để cùng nghe. Biết bao là tin hay, toàn những tin thắng trận. Ông Hai vui sướng khi nghe tin, vui đến mức "ruột gan ông lão cứ múa cả lên". Ông tự hào, hãnh diện về làng mình. Thể hiện một tình yêu làng quê sâu sắc gắn liền với tinh thần kháng chiến.

Nhưng đó, chỉ là trước khi biến động xảy ra. Ông gần như hoàn toàn sụp đổ khi biết được tin, làng Chợ Dầu theo Tây. Trên đường từ phòng thông tin về, với tâm trạng mừng vui phơi phới, ông lão ghé quán nước nghỉ mát, tránh cái nắng gay gắt của buổi trưa oi ả. Bắt chuyện với những người từ Gia Lâm lên đây tản cư, ông biết tin Tây chuyển sang khủng bố làng Chọ Dầu. Ông Hai dường như đặt hết hy vọng vào người làng mình, mong muốn được nghe tin thắng trận, nhưng tất cả những gì mà ông nhận lại được đó là một gáo nước lạnh tái tê lòng: "Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa!". Ngay lúc này đây, tác giả đã tinh tế tái hiện lại tâm trạng sửng sốt, bất ngờ, đau đớn của ông Hai. Cổ ông nghẹn lại, da mặt tê rân rân, người lặng đi, không thể thở được. Một lúc lâu, ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, rặng hỏi lại, khao khát một câu trả lời khác đi, mong rằng đó chỉ là một sự nhầm lẫn. Nhưng sự thật tàn nhẫn đã đánh gục ông. Ông cười nhạt, đứng lảng ra chổ khác, rồi đi thẳng. Ông gầm mặt xuống mà đi. Những câu miêu tả tâm trạng ngắn ngủi, ta có thể cảm nhận sâu sắc sự xấu hổ, sợ hãi, đau đớn của ông Hai khi vừa nghe tin làng minh theo giặc.

Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, miên man nghĩ suy về chuyện ấy. Bất giác nhìn lũ con chơi ngoài kia, ông lão tủi thân, nước mắt trào ra, rồi tức giận rít lên. Đó không chỉ là sự tức giận thông thường, bên trong nó chất chứa những sự thất vọng, biết bao hy vọng bấy lâu đang bị nứt nẻ, vỡ tan nát đi, khiến ông không cầm lòng được. Dường như một tia hy vọng nào đó trong lòng ông vẫn chưa hoàn toàn vụt tắt, ông ngẫm lại, kiểm điểm lại từng người, từng người một trong làng. "Toàn là những người có tinh thần cả mà", ông thoáng nghĩ qua, nhưng chợt ngưng lại "...không có lửa làm sao có khói.", ông tự nhủ bản thân, và cảm thấy, chao ôi là nhục nhã. Đêm đó, ông tràn trọc, mãi vẫn không ngủ được, cứ lo nghĩ về tin đồn ấy thôi. Việc miêu tả nhân vật qua hành động, cử chỉ, kết hợp với độc thoại, độc thoại nội tâm, đã đưa người đọc chìm sâu vào tâm tư, suy nghĩ, những bối rối, âu lo hay cả sự buồn tủi, tức giận của nhân vật ông Hai, khi về đến nhà.

Kể từ ngày hôm đó, ông cũng chẳng dám bước chân ra khỏi nhà, suốt ngày chỉ ru rú mà nghe ngóng tin tức từ bên ngoài. Mỗi lần, cứ thấy một nhóm người tụm lại xôn xao bàn tán, ông lại lủi ra góc nhà "lại chuyện "ấy" rồi!". Nó đã trở thành một nỗi ám ảnh day dứt, nặng nề trong lòng ông. Nó thật đáng sợ. Nhưng, còn có chuyện đáng phải sợ hơn, đó là, mụ chủ nhà. Từ hôm biết chuyện, mụ chủ nhà suốt ngày cứ nói bóng nói gió về chuyện làng ông, làm lòng ông đau như cắt. Những lúc như thế, ông lão chỉ vờ cười cười xem như chẳng hiểu gì cho qua chuyện. Hôm nay, mụ chủ nhà có ý đuổi gia đình ông đến nơi khác, vì dân ở đây bảo có lệnh không cho người Chợ Dầu sống ở đây nữa, làm ông khổ tâm hết sức. Đầu óc ông rối bời bời. Bây giờ mà đi, ông biết phải đi đâu? "Hay là quay về làng?" Vừa mới nghĩ đến, ông liền gạt phắt ngay suy nghĩ ấy. Ông theo kháng chiến, theo Cụ Hồ. Làng bây giờ đã đổ đốn ra thế đấy, nếu quay về làng, chẳng khác nào "bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ"? Đến đây, nước mắt ông lão giàn ra: "Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.". Một cuộc giằng xé nội tâm gay gắt, giữa lòng yêu làng và yêu nước, giữa tình quê hương với kháng chiến, ông Hai đã rơi vào bế tắt và tuyệt vọng. Nỗi uất ức trong lòng không cách nào tỏ bày, ông chỉ biết tâm sự, thủ thỉ với con nhỏ, nhất quyết ủng hộ Cụ Hồ, đi theo kháng chiến. Dù biết nói với con cũng chẳng để làm gì, nhưng ông vẫn nói. Nói để "ngỏ lòng mình", nói để tự "minh oan cho mình", để "Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông." Ông muốn nói để tỏ tấm lòng thành với nước, nguyện không thay lòng đổi dạ, đó là tấm lòng của cả bố con ông, tấm lòng chung thuỷ với làng quê, với kháng chiến. Qua diễn biến tâm trạng, cuộc tranh đấu gay gắt trong tâm trí của ông Hai, chúng ta không thể phủ nhận tình cảm thiêng liêng, sâu nặng, bền vững mà ông dành cho làng quê, cho kháng chiến. Đó là cơ sở của lòng yêu nước.

Trải qua bao nỗi day dứt, dằn vặt lòng, cuối cùng, mọi thứ tốt đẹp cũng đã đến với ông lão. Chiều hôm ấy, ông biết tin đồn làng Chợ Dầu theo Tây là giả. Ông mừng quá, vội vã ra ngoài quên dặn cả lũ trẻ trông nhà. Cái mặt buồn thiu lúc nào bông vui vẻ hẳn lên. Ông mua quà bánh chia cho lũ trẻ, rồi hối hả thông báo với mọi người. Ông đi từng nhà, khoe với họ nhà mình đã bị Tây đốt nhẵn, tin làng theo giặc là sai hết, "sai sự mục đích" cả. Ông cứ lặp đi lặp lại những câu ấy mãi chẳng ngán, rồi nhanh chóng sang nhà khác, để người khác còn mau mau biết chứ! Ai cũng mừng cho ông, kể cả mụ chủ nhà cũng mừng, cho gia đình ông tiếp tục ở lại, còn bảo phải nuôi cả con lợn ăn mừng. Ông Hai sang bên bác Thứ- nhà hàng xóm, "xén quần lên tận bẹn" mà kể về chuyện làng ông bị Tây khủng bố, chúng nó bao nhiêu, đánh thế nào... thật chi tiết và tỉ mỉ như ông vừa mới đánh trận xong về vậy. Ông háo hức, vui mừng, thể hiện tình yêu và niềm tự hào sâu sắc về làng.

[Có thể liên hệ các nhân vật trong tác phẩm khác cùng chủ đề để làm sáng tình yêu quê hương, đất nước. VD: Phương Định (Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê); Anh thanh niên (Lặng lẽ Sa-pa - Nguyễn Thành Long)...]

Với tình huống truyện đơn giản, gây ấn tượng, tác giả đã đặc nhân vật vào tình huống tự khắc để bộc lộ hoàn toàn tình yêu làng quên, tình yêu đất nước. Miêu tả cụ thể diễn biến tâm lí, sử dụng nghệ thuật đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm nhằm khắc hoạ rõ nét, diễn tả sâu sắc tâm trạng của nhân vật. Ngôn ngữ giàu tình khẩu ngữ mang đến cho người đọc cảm giác gần gũi, dễ thấu hiểu, thông cảm, đồng cảm, cảm nhận chính xác cảm xúc của nhân vật được tập trung miêu tả.

Bằng việc khéo léo sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật miêu tả đặc sắc, đoạn trích đã tái hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai- hình ảnh của những con người, đặc biệt là nông dân Việt nam, làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân chất phác, vừa yêu làng, vừa yêu nước, nghĩa tình với Cách mạng, bất kể hoàn cảnh ra sao, vẫn giữ một lòng trung thành với nước.
 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
2
Nguyễn Anh Minh
01/06/2021 21:25:47
+4đ tặng

Kim Lân là gương mặt tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và mảng đề tài về nông thôn Vin gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống thôn quê nên hầu như Kim Lân chi viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Trong số những tác phẩm thành công về đề tài ấy, “Làng” là một truyện ngắn tiêu biểu. Kim Lân sáng tác truyện ngắn này vào năm 1948, trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thiên truyện xuất sắc này, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật ông Hai. Đặc biệt, truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân mà đặc biệt là đoạn trích trên đã thể hiện một cách sinh động và tinh tế diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Qua diễn biến tâm trạng ấy ta thấy được những chuyển biến mới trong đời sống tinh thần của người nông dân Việt Nam trong đó buổi đầu kháng chiến. Đó là sự hòa quyện, thống nhất giữa tình yêu làng quê với lòng yêu đất nước và tinh thần chống Pháp.

Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm, đó là một người nông dân có tình yêu làng quê sâu sắc, nhưng vì hoàn cảnh, ông buộc phải rời làng đi tản cư. Ở nơi tản cư, ông vẫn luôn nhớ về làng Chợ Dầu quê ông và tự hào khoe làng ông là làng kháng chiến. Tình yêu làng của ông Hai đã được nhà văn đặt vào một tình huống đầy thử thách. Đó là tin đồn làng chợ Dầu mà ông vẫn tự hào đã làm Việt gian theo Tây. Người nông dân ấy đã trải qua tâm trạng dằn vặt, đau đớn, phải tự đấu tranh với chính mình để lựa chọn con đường đúng đắn. Từ tình huống có ý nghĩa thử thách ở nội tâm nhân vật nhà văn đã mở ra biết bao cung bậc cảm xúc của một tấm lòng yêu làng, yêu nước và những chuyển biến mới trong tâm hồn, tình cảm của người nông dân này.

Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đã được nhà văn Kim Lân thể hiện thật sinh động và tinh tế. Lúc mới nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai bàng hoàng đến sửng sốt "Cổ ông lão nghẹn ng hắn lại, da mặt tê rần rần, ông lão lặng đi đến không thở được. Một lúc lâu, ông mới rặn è è như nuốt một cái gì vướng trong cô, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi". Trạng thái bàng hoàng, hụt hẫng này là phản ác tâm lý hết sức tự nhiên của một người quá yêu làng. Nếu không yêu thì cái tin làng Chợ Dầu theo giặc không thể gây chấn động mạnh tựa như một cú sốc tinh thần như thế với ông Hai. Song, ông Hai vẫn còn nghi ngờ chưa thể tin ngay lời đồn đại, ông lắp bắp hỏi lại: "Liệu có thật không hở bác, hay là chi lại ...". Ông hỏi lại để khẳng định cũng là để cố bấu víu vào một tia hi vọng rằng đó chỉ là sự nhầm lẫn là một lời đồn đại vô căn cứ. Nhưng khi cái tin được khẳng định từ những người tản cư thì ông Hai không thể không tin. Từ lúc ấy, tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt bởi mặc cảm là người làng Việt gian. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian bán nước "ông cúi gằm mặt xuống mà đi" ta nhận thấy trong cái cúi mặt này biết bao xấu hổ, nhục nhã, đau đớn. Nỗi nhục khiến ông không thể ngẩng đầu lên được. Phải chăng, ông Hai đã đồng nhất danh dự của ông với danh dự củ làng ông. Với ông, danh dự của làng cũng là danh dự của chính ông . Đây là nét tâm lý cộng đồng của người nông dân Việt Nam trong thời đại mới.

Về đến nhà, ông Hai càng tủi thân, thương con thương mình và thương cả nhữn người nông dân làng chợ Dầu vì mang tiếng là làng Việt gian: "Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lại cứ giàn ra, chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư. Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?". Nghĩ đến sự khinh bỉ của mọi người, ông Hai càng căm giận những kẻ Việt gian bán nước. Ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Nhà văn Kim Lân đã sử dụng thật tài tình độc thoại để bộc lộ nỗi lòng nhân vật. Sự căm giận, nỗi tủi hổ, nhục nhã trong lòng người nông dân này không kìm nén nổi đã bật ra thành tiếng chửi. Trong nội tâm nhân vật ông Hai đã diễn ra một sự giằng xé giữa tin và không tin. Một mặt, ông Hai kiểm điểm lại từng người trong óc "họ toàn là những người có tinh thần cả mà". Ông tin những người ở lại làng không ai can tâm làm điều nhục nhã ấy. Nhưng rồi ông lại phân vân: "Thằng Chảnh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bia tạo ra những chuyện ấy làm gì". Nhà văn Kim Lân đã rất tinh tế khi phát hiện ra nét tâm lý nửa tin nửa ngờ ở nhân vật. Vì quá yêu làng nên ông Hai cố tìm một chút hy vọng để bấu víu. Nhưng rồi trước những chứng cứ hiển' nhiên, ông đành cay đắng chấp nhận sự thật. Từ lúc ấy, nỗi nhục nhã lại sôi réo trong lòng ông: Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!". Ông Hai lại càng hoàng mang, lo sợ, sẽ tuyệt đường sinh sống khi nghĩ đến việc người ta sẽ không chứa, không buôn bán gì người làng Việt gian.

Ông Hai là nhân vật tiêu biểu điển hình về người nông dân trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, người nông dân yêu làng, yêu nước, có niềm tin tuyệt đối vào cách mạng. Qua nhân vật ông Hai, ta thấy được nhận thức của người nông dân về cuộc kháng chiến và trong cuộc kháng chiến chống Pháp họ đã góp phần làm lên thiên sử vàng vẻ vang của dân tộc. Thấy được nghệ thuật miểu tả nhân vật tài tình của nhà văn Kim Lân cũng như tình cảm gắn bó, quý trọng người nông dân của nhà văn.

4
2
+3đ tặng
Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.
 
Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dâu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.
 
Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông. Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi: “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.
 
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như xét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ giàn ra”. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành. Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được?“), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi“). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!” Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?” Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.

 
Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!” Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.

 
Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!” Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám. Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.” Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.

Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn!” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy: làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.

 
Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói: “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.” Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.
 
Nguyễn Đình Thi từng viết rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.
 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×