LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Hãy chọn và phân tích một câu thơ (hoặc một đoạn thơ) trong đoạn trích để làm nổi bật bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình dưới ngòi bút Nguyễn Du

Hãy chọn và phân tích một câu thơ (hoặc một đoạn thơ) trong đoạn trích để làm nổi bật bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình dưới ngòi bút Nguyễn Du.

3 trả lời
Hỏi chi tiết
797
3
0
KhánhTaapPay
28/06/2021 08:03:05
+5đ tặng

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là bức tranh tâm trạng của Thúy kiều ở lầu Ngưng Bích, đây là một trong những đoạn văn miêu tả tâm trạng thành công nhất của nhân vật Thúy Kiều. Tác giả Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để thể hiện tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Đoạn trích có nhịp điệu nhẹ nhàng, miên man mang nỗi buồn phảng phất từ lòng người lan truyền thấm vào cảnh vật, rồi từ cảnh vật rồi xoáy vào lòng người. Hầu như không dòng nào, câu nào, hình ảnh âm thanh nào trong đoạn trích không ít nhiều thể hiện tâm trạng nhân vật. Tâm trạng bẽ bàng, buồn nhớ, lo lắng… khi Kiều một mình trước lầu Ngưng Bích.

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Bốn câu thơ trên là bức tranh thiên nhiên quanh lầu và cũng là bức tranh tâm trạng. Hoàn cảnh của kiều lúc này rất bung lung, bi thảm. Kiều được Tú bà cho ra ở lầu ngư bích nhưng thực chất là giam lỏng nàng.

Nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Từ trên lầu cao Kiều ngóng vọng ra 4 phía bát ngát, dãy núi mờ xa những cồn cát vàng, trải dài chỉ có mảnh trăng gần ở chung. Những hình ảnh non xa, mà cũng có thể hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, hoang vắng, rộn ngợp không gian. Qua đó làm nổi bật hoàn cảnh tâm trạng bẽ bàng rộn ngợp của Kiều.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Sớm sớm nhìn mây, đêm đêm đối diện với ngọn đèn cảnh người cùng thao thức sẻ chia biết nói cùng ai một mình với vầng trăng, người bạn gần gũi thân thiết nhất, vầng trăng sáng đã gợi Kiều nhớ về quá khứ:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Bơ vơ nơi góc bể chân trời vầng trăng, không chỉ là bạn mà còn là nguyên cớ gợi Kiều nhớ về Kim Trọng. Kiều xót xa, hình dung Kim Trọng vẫn chưa biết tin nàng đã bán mình mà vẫn ngày đêm mong ngóng tin tức chờ đợi mỏi mòn, Nàng nhớ về Kim Trọng với tâm trạng đau đớn, xót xa tự dằn vặt. "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai" - nàng cho rằng mình bạc tình với Kim Trọng bội ước lời thề non hẹn biển, không giữ được lòng thủy chung. Bao nỗi dằn vặt, vò xé biết khi nào, bao giờ mới xóa mờ.

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Tiếp đó Kiều nhớ đến cha mẹ, nhớ tới thân Kiều và xót. Nàng thương cha mẹ khi sáng khi chiều tựa cửa ngóng tin con, trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà không tự tay chăm sóc và hiện thời ai người trông nom. Thành ngữ "Quạt nồng ấp lạnh", điển cố sân lai, gốc tử đều nói lên tâm trạng thương nhớ, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê hương tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là cha mẹ mỗi ngày thêm già yếu. Cụm từ "cách mấy nắng mưa" vừa nói lên được sức mạnh tàn phá của tự nhiên, nắng mưa đối với cảnh vật và con người nỗi day dứt không phụng dưỡng được cha mẹ lúc tuổi già sức yếu thể hiện tấm lòng hiếu thảo của nàng. Vậy trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng đã quên cảnh ngộ của bản thân mà nghĩ về người khác. Kiều là người tình thủy chung, người con hiếu thảo, người đáng kính trọng. Đoạn trích còn thể hiện nét đặc sắc độc đáo của nhà thơ khi thể hiện một cách khách quan:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
............
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Thiên nhiên biểu đạt nội tâm nhân vật, tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này. Mỗi điệp ngữ “buồn trông“ lại diễn tả một khung cảnh, một nỗi buồn cảnh ngộ khác nhau. Nỗi buồn cứ chồng chất như sóng xô dập ngập lòng Kiều.

“Buồn trông cửa biển lúc chiều buông/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa” - phải chăng đó là hình bóng con người đơn độc lênh đênh vô định trên dòng đời. Nàng thấy sợ hãi và càng nhớ về quê hương mái ấm gia đình da diết.

“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu “

Đây là câu thơ thể hiện đời Thúy Kiều, thân phận nàng chẳng khác nào cánh hoa dạt trôi, mưa dập gió vùi biết đi đâu về đâu trôi dạt nơi nào?

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Buồn cho ngọn cỏ mà nghĩ tới thân phận cỏ cây hoa hèn, chân mây mặt đất, góc bể chân trời đâu chốn lương thân, tâm trạng này khiến Kiều càng bi thương vô bờ.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Sóng gió ầm ầm, ào ạt quanh ghế ngồi, cảm giác như tai họa đang ập đến bên cô. Mỗi câu mỗi vẻ, cảnh vật tâm trạng nỗi buồn ngày một lớn, mỗi lúc càng thêm chồng chất. Tất cả dồn tụ thành cao trào hòa cùng tiếng sóng đang xô đẩy dồn dập vào cuộc sống Kiều.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn trích miêu tả tâm trạng nhân vật kiều đặc sắc và thành công. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình thể hiện tâm trạng của Kiều khi một mình cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
1
Nguyễn Nguyễn
28/06/2021 08:04:34
+4đ tặng

Truyện Kiều là kiệt tác bất hủ của nền văn học Việt Nam và thế giới. Tác phẩm đã phản ánh sinh động xã hội Việt Nam thế kỉ XIIIV, khi mà chế độ phong kiến đang suy thoái đã bộc lộ đầy đủ tính chất mục nát, vô nhân tính, và tình cảnh các tầng lớp nhân dân bị dồn đến bước đường cùng không lối thoát. Một trong những thành công lớn của Truyện Kiều là nghệ thuật miêu tả nội tâm đạt đến trình độ sắc sảo hiếm có của thiên tài Nguyễn Du. Tài năng ấy thể hiện rất rõ trong 8 câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ. Mụ vờ chăm sóc, thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả cho người tử tế; rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới. Sau đoạn này là việc Kiều bị Sở Khanh lừa và phải chấp nhận làm gái lầu xanh. Đoạn trích nằm giữa hai biến cố đau xót. Đây là những biến cố giúp ta hiểu những bàng hoàng tê tái và sự lo âu về tương lai của nàng Kiều.

Chính trong hoàn cảnh cô đơn nơi đất khách quê người, tâm trạng của Kiều chuyển từ buồn bã sang nhớ thương. Kiều nhớ người yêu, nhớ cha mẹ. Nỗi nhớ ấy được Nguyễn Du miêu tả xúc động bằng những lời độc thoại nội tâm của chính nhân vật. Đoạn thơ này được xem là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển. Để diễn tả tâm trạng Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng những ngôn từ hết sức điêu luyện:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Đây là 8 câu thơ thực tả cảnh vật mà cũng là miêu tả tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng người, mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau. Trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng, để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt hơn,

Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ song hành của nguyễn Du đạt đến trình độ nhuần nhị, điêu luyện hiếm có. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc qua điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, mong ngóng có cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại. Thế nhưng, Thúy Kiều càng trông mong càng vô vọng. Bởi thế, trong tâm trạng hỗn độn ấy, có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ hút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng về tương lai của thiếu nữ ngây thơ lần đầu lại bước giữa cuộc đời ngang ngược.

Điệp ngữ “buồn trông” lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu, chủ yếu là những từ láy tượng hình, thúc nhịp dồn dập: “thấp thoáng”, “xa xa”. Nhịp thơ dập dìu như lớp sóng khơi xa, tuy nhẹ nhưng lan tỏa, tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng:

“Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.

Cửa biển là nơi gặp gỡ, cùng là nơi chia li. Cánh buồm là biểu tượng của sự kết nối. Cánh buồm thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ. Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm mong nhớ, khát vọng trở về của nàng Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi đơn độc, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt; cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương.

Càng trông nhìn càng thấy rời xa. Cuối tầm nhìn, con thuyền gần như mất hút trong không gian vô tận. Kiều nơi đất khách quê người, phận đời lênh đênh không biết bao giờ mới được trở vẻ sum họp đoàn tụ với những người thân yêu. Quá hụt hẫng, nàng đưa tầm nhìn về với dòng nước trôi:

“Buồn trông ngọn nước mới ra
Hoa trôi man mác mác biết là về đâu?”

Hoa là biểu tượng của cái đẹp và sự mong manh. Nguyễn Du dùng hình ảnh hoa trôi tuy không có gì mới lạ nhưng hết sức kịp thời, đúng lúc. Hoa ấy không nở, không tàn, không ở trên cành cũng chẳng ở trên tay; cánh hoa ấy đang trôi bơ vơ, lạc lõng giữa dòng nước. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu. Thúy Kiều càng buồn hơn bởi nàng như nhìn thấy thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi giữa sóng nước cuộc đời, không biết rồi sẽ trôi dạt đi đâu, sẽ bị vùi dập ra sao? Hoảng hốt, nàng nhìn quanh sân vườn mong tìm chút gì đó để tâm hồn an tịnh, để trái tim bớt cường nhịp:

“Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mày mặt đất một màu xanh xanh”.

Nội cỏ “rầu rầu”, “chân mây mặt đất một màu xanh xanh” là sắc buồn nhuốm đẫm cả không gian. Sắc xanh héo úa, mù mịt, phai tàn trải dài từ “chân mây” đến “mặt đất”. Còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng về cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ. Dường như, dưới ánh mắt của Thúy Kiều, đất và trời chỉ là một màu xám đen bất tận. Quá hãi hùng, nàng trở về nương trú nơi chính mình. Thế nhưng, cả trí óc lẫn con tim nàng giờ đây đã chìm trong giông bão:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.

Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn “gió cuốn mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công.

Tất cả là đợt sóng đang gầm thét trong lòng nàng. Lúc này, Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi, bất lực. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự kinh động, bàng hoàng.

Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm”… góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là tượng nhìn qua tâm trạng theo quy luật “người buồn có đâu bao giờ”.

Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.

Nguyễn Du cũng đã vận dụng thành công thủ pháp nghệ thuật tăng tiến để miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều trước đất trời Ngưng Bích. Tâm trạng từ mong ngóng đến đợi trong, rồi hoang mang, hãi hùng đến bế tắc, tuyệt vọng, Kiều đã đi hết một vòng trờn nội tâm. Giây phút cuối cùng của trường đoạn tâm lí dồn dập đến nghẹt thở. Không có giọt nước mắt chảy xuống bởi nàng đã quá đớn đau, nhưng điều đó cũng đủ để người đọc xót xa cho số phận người người thiếu nữ chưa qua xuân trẻ đã vào gian truân.

1
0
Hằngg Ỉnn
28/06/2021 08:08:06
+3đ tặng

Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một tác gia văn học tài hoa và lỗi lạc của văn học Việt Nam. Ông được mệnh danh là thi sĩ của các nhà thi sĩ. Truyện Kiều là một tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Du là đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật thi ca. Đọc tác phẩm, chúng ta không thể quên được đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".

Sau bao biến cố khủng khiếp: tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị cướp hết, Kiều phải hi sinh chữ tình để báo hiếu với cha mẹ. Bị Mã giám Sinh lừa gạt bán vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều tự tử nhưng không chết. Tú Bà dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích để kén chồng nhưng thật chất đó là cuộc giam lỏng, chờ cơ hội mụ sẽ bắt Kiều trở lại lầu xanh. Lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa biển khơi là điểm dừng chân đầu tiên trên con đường lưu lạc đầy cay đắng và tủi nhục của Thúy Kiều. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là nỗi cô đơn buồn tủi, niềm nhớ thương da diết về quê hương gia đình và người thân của Kiều. Đó cũng là thể hiện tấm lòng thủy chung hiếu thảo của nàng.

Trước hết với sáu câu thơ mở đầu của đoạn trích, là không gian nghệ thuật chứa đầy tâm trạng của Kiều. Trước mặt, là biển khơi từ trên lầu cao nàng cảm nhận được một không gian mênh mông rợn ngợp. Xa xa là dãy núi, hai bên bờ là cồn cát bụi mù bay. Chỉ có lầu Ngưng Bích đang giảm lòng một thân phận mỏng manh đơn côi. Đó là một không gian hoàn toàn khép kín. Một mình đối diện với "mây sớm đèn khuya". Khiến Kiều đau khổ đến tủi nhục bẽ bàng cho cái kiếp vô duyên lạc loài của mình:

"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"

Không gian đã vậy thời gian cũng hoàn toàn khép kín khiến Kiều buồn tủi, lủi thủi một mình cô đơn đến tuyệt đối.

Đến với tám câu thơ tiếp theo là tâm trạng nhớ thương da diết của Kiều về gia đình và người thân. Trước hết, Nguyễn Du để cho Kiều nhớ Kim Trọng (điều này khác hẳn với Thanh Tâm tài nhân). Nàng đã từng uống rượu ăn thề cùng Kim Trọng dưới ánh trăng nhưng rồi đã phải xót xa trao mối tình ngọt ngào ấy cho Thúy Vân. Trên đường về Lâm Tri theo Mã giám Sinh nàng vẫn thương cho Kim Trọng trong cô đơn buồn tủi: "Một trời thu để riêng ai một người". Giờ đây trong lúc mà thời gian cứ trôi đi Kiều nhớ Kim Trọng là tưởng nhớ tới lời thề đôi lứa:

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai."

Những lời thề nguyền đâu còn nữa, cái cây cầu trần thế mà Kiều và Kim Trọng phải bước qua thật là éo le. Nàng tưởng tượng cái cảnh Kim Trọng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích "Tin sương luống những dày trông mai chờ". Trong nỗi nhớ ấy người đọc nhận ra một tâm trạng xót xa đau đớn. Nàng tự hứa "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai". Đó là tấm lòng thủy chung son sắt thề non ước biển của kẻ chung tình.

Tiếp đó, là Kiều nhớ tới cha mẹ. Nghĩ tới song thân Kiều vô cùng thương xót:

"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm"

Nàng nghĩ tới cái cảnh cha mẹ ngồi tựa cửa ngóng con lúc sáng sớm hay buổi chiều tà. Vậy mà vẫn bặt vô âm tín. Nàng xót xa lúc cha mẹ già yếu không có ai chăm sóc phụng dưỡng chăm nom. Tâm trạng nhớ thương vời vợi cùng với nỗi xót xa thể hiện sâu sắc tấm lòng hiếu thảo của nàng. Rất nhiều từ ngữ lấy từ điển cố cùng với từ ngữ dân gian vừa nói được thời gian xa cách, vừa nói đến sự tàn phai khốc liệt của thiên nhiên đối với con người. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm, phong cách cổ điển hài hòa với phong cách dân tộc tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Kiều. Trong cảnh bình rơi trâm gãy Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng không nghĩ đến mình mà vẫn nhớ thương cha mẹ và người thân. Kiều thực sự là người tình thủy chung một người con hiếu thảo có tấm lòng vị tha đáng trân trọng.

Tám câu cuối, là cảnh xế chiều cảnh vật dễ làm cho con người buồn thương da diết:

"Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

Mỗi biểu hiện của cảnh vật bên bờ biển lúc này đều thể hiện một tâm trạng và một cảnh ngộ đáng thương. Nhìn cánh buồm thấp thoáng giữa biển khơi rồi dần dần khuất bóng "càng trông" lại càng thấy buồn, nàng liên tưởng tới cuộc đời nho nhỏ bơ vơ trơ trọi trên đất khách. Nhìn những cánh hoa tàn nát trôi giữa dòng nước lũ. Nàng tự hỏi rồi nó sẽ trôi về đâu về phương trời nào mà hoàn toàn vô định. Cánh hoa ấy hay chính số phận chìm nổi không có nơi nào neo đậu của số phận nàng Kiều. Nhìn nội cỏ dầu dầu trong không gian bao la, cái màu sắc ảm đạm thê lương ấy phản chiếu một nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc. Cuộc sống như mất hết ý nghĩa như cái sắc cỏ úa tàn kia mất dần sự sống. Rồi "ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi" trận cuồng phong của biển cả bắt đầu nổi lên, gió to sóng lớn hay chính lòng đố kị ghen ghét của thiên nhiên đang bủa vây lấy nàng. Phải chăng đây là điều mà Nguyễn Du đã dự báo những tai họa khủng khiếp giáng xuống đầu nàng. Càng lo âu Kiều càng hãi hùng và ghê sợ. Cứ thế, từ nhìn đến nghe, "buồn trông" đến bốn lân trong một điệp ngữ.

Tám câu thơ là một điệp khúc buồn được lặp lại qua sự thay đổi của từng cảnh vật. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, từ màu nhạt đến màu đậm, âm thanh từ tĩnh đến động nỗi buồn cũng từ "man mác" đến lo sợ hãi hùng Nguyễn Du đã từng kết luận:

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"

Đoạn thơ sử dụng rất nhiều câu hỏi tu từ, các từ láy các thành ngữ, ngôn ngữ độc thoại nội tâm, âm hưởng trầm buồn tạo nên một không gian nghệ thuật và cảm xúc nghệ thuật.

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất Truyện Kiều. Ngòi bút của ông đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của nàng Kiều khiến người đọc thực sự rung động xót xa. Cảnh trong tình, tình trong cảnh cứ hòa quyện đan xen làm nổi bật chủ đề đoạn thơ. Bức tranh tâm trạng của người con gái họ Vương vì thế neo đậu mãi trong lòng người đọc.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư