" Đau đớn thay thân phận đàn bà
lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung" < Nguyễn Dữ>
Lời cảm thân của Nguyễn Dữ đã khái quát chung số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Họ chịu nhiều bất hạnh khổ đâu, ngang trái. Trở lại thế kỉ XVI, Nguyễn Dữ cũng chung cảm hứng với Nguyễn Du viết về người phụ nữ Vũ Thị Thiết tên con gọi là Vũ Nương có số phận éo le, oan khuất phải tìm đến cái chết. Nhưng ẩn sâu trong nó họ vẫn sáng lên vẻ rất đáng trân trọng của mình.
Nguyễn Dữ là nhà văn tiến bộ, lần đầu tiên tính đến thế kỉ XVI người phụ nữ bình dân được giới thiệu với đầy đủ họ tên, số phận, phẩm chất với cảm hứng ngợi ca đồng cảm sâu sắc.
Xã hội xưa bất công, trọng nam kinh nữ. Nhưng Vũ Nương đã vượt lên và có trọn đủ bốn phẩm đức cao đẹp theo quan niệm về xã hội xưa: Công, dung, ngôn,hạnh.
Trước hết nàng đệp về chữ công, công là công lao công việc, nàng đảm đang ghánh vác việc nhà khi trương sinh đi Lính.
Trương sinh ra trận nàng đang mang thai một tuần sau thì sinh con vượt cạn một mình không có chông ở bên. Nàng lại một mình nuôi dậy con thơ giữ vai trò vừa là mẹ vừa là cha của bé Đảm. Mẹ chồng nàng ốm đau nàng chăm sóc phụng dưỡng. Khi bà mất nàng lo ma chay chu tất.
Tiếp đó nàng còn đẹp ở chữ Dung đó là dung nhan, là hình thức, ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Dữ đã giới thiệu về nàng, tính đã thùy mị nết na lại có tư dung tốt đẹp” Nhân vật của ông đẹp cả về hình thức và phẩm chất.
Không chỉ vậy nàng còn đẹp ở chữ Ngôn. Lời nói dù trong xã hội phong kiến phụ nữ không được học hành, tuy nhiên lời nói của vũ Nương rất dịu dàng, có lí chứng tỏ nhân vật chính của mình thông qua lời nói, bộc lộ tâm lí, tính cách chẳng hạn lời tiễn chồng ra trận: “ Chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi. Nàng không mong vinh hiển chỉ cầu bình yên cho chồng tỏ lòng nhớ mong khiến ai chứng kiến cũng ứa hai hàng lệ. Đặc biệt hơn nàng còn đẹp ở chữ Hạnh đức hạnh phẩm chất cao quý nhất của con người, với con nàng là người mẹ hiền, nuôi dậy con thơ một mình. Con thiếu vắng tình cha nàng bù đắp cho con và trỏ bóng của mình mà bảo là cha đảm, nó như là sợi dây yêu thương gắn kết cha con đảm.với mẹ chồng nàng là người con dâu hiểu thảo. Khi bà ốm nàng chăm sóc động viên gắng ăn miếng cơm, miếng cháo chờ Trương Sinh về. Nàng còn lẽ bài thần phật cầu cho bà mau khỏe. Khi bà mất nàng lo ma chay chu tất như với cha mẹ đẻ của mình. Lời trăn trối của bà đã đánh giá cao nhân cách Vũ Nương “ Sau này trời xét lòng lãnh ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mje” Trong xã hội phong kiến quan hệ mẹ chồng nàng dâu vốn không mấy tốt đẹp, ở đây lại khác. Chứng tỏ tấm lòng của nàng đã được đánh giá cách thuyết phục. với chồng Vũ Nương là người vợ thủy chung. Khi mới lấy chồng biết chồng có tính đa nghi hay ghen nàng đã giữ gìn khuôn phép, nên vợ chồng không từng xảy ra chuyenejt ất hòa, nàng đã khéo léo giữ gìn tổ ấm. Trong thời gian chống ở nơi chiến trường, nàng một lòng thủy chung với nỗi nhớ thương, một khi thấy bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời ấy không thể ngăn được. Khi chồng trở về hạnh phúc chưa kịp mỉm cười với nàng thì tai họa đã ập đến. Trương sinh nghi oan nàng không chung thủy đã đámh nhiếc đuổi nàng ra khỏi nhà khiến nàng phải tìm đến cái chết oan. Vì thế khi nghe Phan lang kể chuyện nhà, nàng ứa khó quyết Tôi tất phải tìm về có ngày khi trương sinh lập đàn giải oan nàng chỉ loang láng hiện ở giữa dòng rồi biến mất nàng không muốn phụ ảo đức linh phi.
Với người đời nàng còn trọn ân nghĩa danh dự này mang sống để bảo toàn danh dự để khẳng định sự trong sạch, tiết trắng. Với nàng danh dự quan trọng hơn mạng sống rồi khi sống dưới thủy cung trong làng mây cung nước, nàng vẫn khao khát trở về minh oan. Vì thế nàng gửi chiếc kim hoa cùng lời nhắn cho trương sinh lập đàn giải oan, người buộc nỗi oan phải là người cởi bỏ. Và nàng cũng không phụ ân đức của linh phi nên không trở về trần gian “ Thiếp cảm ơn đức của linh phi đã thề sống chết cũng không bỏ đa tạ tình chàng thiếp chẳng trở về trần gian được nữa.
Tuy Vũ Nương là một người phụ nữ có vẻ đẹp lí tưởng, vẻ đẹp đáng lẽ phải có cuộc sống hạnh phúc nhưng đối lập nàng lại có cuộc sống oan nghiệt.
Vũ Nương, một người phụ nữ vẹn sắc, đức hạnh nhưng lại phải chịu tình duyên ngang trái lấy phải người chồng vũ phu, ít học, hay ghen.
Đọc tác phẩm không ai là không xót xa cho hoàn cảnh của Vũ Nương lấy chồng chưa được bao lâu chưa thỏa tình chăn gối thì trương sinhd dã phải đi lính, thật buồn cho vũ nương ngày ngày một mình, chờ đợi ngóng mong thông tin của chông nơi biên ải, người con gái bạc mệnh sống trong cảnh chia lìa đơn chiếc. Trương Sinh đi để lại cho người vợ trẻ gánh nặng mẹ già, con thơ. Nàng thay chồng làm tròn bổn phận người con với mẹ. Rồi phải vừa là mẹ vừa là cha để chăm sóc bế đảm.Nhưng đêm thâu, nàng chỉ còn cách chỉ chiếc bóng của mình trên vách tường mà bảo là cha đảm.
Sau ba năm đi lính, trương sinh trở về nghe lời con nhỏ nghi oan vợ không chung thủy, trương sinh đã mang nhiếc đuổi nàng đi mà không để nàng thanh minh. Hạnh phúc tưởng chừng như đã đến vậy mà chỉ vì itn lời một đứa trẻ mà trương sinh nghi vợ hư hỏng. Những lời biện bạch của nàng đều bị gạt phắt. Trương sinh đã thành một kẻ vũ phu dẫn đến cái chết oan của Vũ Nương.
Một thời gian sau Vũ Nương tự tử, bế con bên cạnh đèn trong đêm khuya, con nói “ Cha đảm lại đến đây kìa” bấy giờ trương sinh mới thấy nỗi oan của vợ nhưng đã muộn.
Ở cuối chuyện tuy nàng có trở về trần gian trong lễ giải oan nhưng rồi cũng lại biến mất bởi sự thật người chết không thể sống lại. Bé đảm đã vĩnh viễn mất mẹ còn trương sinh sẽ phải hối hận cả đời.
Về phần nghệ thuật cách xây dựng tình huốn truyện thắt nút, gỡ nút với tình huống bất ngờ, chiếc bóng đã tạo lên tình huống bất ngờ khiến người đọc bàng hoàng. Sáng tạo từ câu chuyện cổ tích vợ chàng trương đầy ý tưởng mới đã làm câu chuyện thêm hấp dẫn. Kết hợp giữa yếu tố thực và chi tiết kì ảo cùng nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc biệt là nhân vật Vũ Nương qua lời nói hành động. Lời văn giàu hình ảnh tượng trưng, câu văn biến ngẫu, hình ảnh điển tích, điển cố tạo sự hàm sức uyển chuyển.
Tóm lại chuyện người con gái nam xương đã nói lên phẩm chất cao đẹp, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa, đồng thời cũng nói lên số phận oan nghiệt của họ. Ngày nay thời thế đã thay đổi, người phụ nữ không phải chịu trói buộc bởi những luật lệ phong kiến nhưng họ vẫn giữ được vẻ đẹp và phẩm chất cao quý ấy.