Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết một bài văn ngắn cảm nhận của em về bài ca dao sau: Thương thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim ..

Viết một bài văn ngắn cảm nhận của em về bài ca dao sau:
    Thương thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
    Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
    Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
    Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
3 trả lời
Hỏi chi tiết
394
4
0
Thời Phan Diễm Vi
16/08/2021 19:48:44
+5đ tặng

Ca dao dân ca là những tiếng nói nghĩa tình, phản ánh về cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Một cuộc sống bình dị, đời thường nhưng trong xã hội ấy cũng có biết bao số phận éo le, bất hạnh. Thân phận thấp bé khiến họ chẳng thể kêu than với ai mà gửi gắm tâm tư qua những bài ca dao than thân:

Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe

Trong bài ca dao trên tác giả đã sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, thông qua thân phận của những con vật nhỏ bé, lam lũ trong cuộc sống để nói đến nỗi vất vả, cực nhọc của người nông dân. Bốn cặp câu lục bát nói đến bốn thân phận của những loài vật nhỏ bé và đều bắt đầu bằng cụm từ “thương thay”. Thể hiện nỗi niềm thương cảm, xót xa và cũng là sự đồng cảm, sẻ chia với những vất vả của mỗi số phận được nhắc đến. Đó là thân phận con tằm, suốt đời tằm chỉ ăn lá dâu và rồi bao tinh túy chắt lọc, để ra được sợi tơ quý. Tằm rút ruột mình để cho ngươi những sợi tơ óng ánh, quý giá. Lúc rút hết ruột cũng là lúc nó kết thúc cuộc đời của mình.Và khi ấy, thân xác chúng bị gạt bỏ, rẻ rúm. Những người nông dân bé cổ thấp họng trong xã hội cũ cũng vậy, cả đời khom lưng quỳ gối, bị bóc lột sức lao động đến hơi thở cuối cùng để làm giàu cho lũ địa chủ, quan tham tàn nhẫn và độc ác. Hình ảnh con tằm như đại diện cho bao kiếp người đau khổ, sống trong nỗi nhọc nhằn bị bòn gan rút ruột của nhân dân ta thời trước.

Hình ảnh thứ hai được nhắc đến là lũ kiến. Chúng là những sinh vật bé nhỏ nhất, ăn chẳng bao nhiêu nhưng cả đời cần mẫn, chăm chỉ đi tìm mồi. Lặng lẽ đi tha mồi về nuôi “kiến chúa” – con vật đứng đầu trong tổ, chỉ nằm một chờ “kiến thợ “tha những miếng mồi ngon nhất về để ăn. Đàn kiến thầm lặng nối đuôi nhau thành hàng dài đi kiếm mồi ở khắp mọi nơi mà chẳng oán thán một lời. Hình ảnh ẩn dụ đó khiến ta liên tưởng đến những kiếp người, cả đời lam lũ, làm nhiều chẳng hưởng được bao nhiêu, phải cung phụng những kẻ “ngồi mát ăn bát vàng”, những kẻ chuyên quyền ngồi trên chỉ tay sai bảo.

Còn đó là hình ảnh của con hạc gầy gò, cả đời bay mãi tìm nơi neo đậu mà chẳng biết về đâu dù đôi cánh đã mệt mỏi rã rời. Cánh chim ấy cứ bay mãi, nhẫn nại, cam chịu và rồi là tiếng than trong vô vọng. Kiếp người cũng vậy, thân phận nghèo hèn, làm lụng suốt đời  mà chẳng biết tương lai rồi sẽ ra sao. Sự xót xa, ngậm ngùi cho thân phận đáng thương giữa dòng đồi nổi trôi, vô định.

HÌnh ảnh cuối cùng được nhắc đến là tiếng cuốc kêu giữa trời xanh vô tận, tiếng kêu ấy dẫu có nhỏ máu mà chết cũng chẳng ai thấu hiểu. Thân phận của những kẻ thấp cổ bé họng, những người lao động nghèo khổ tận cùng của xã hội, tiếng kêu ấy dẫu có oán thán đến đâu cũng chẳng một ai đoái hoài, cảm thông.

Bằng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc và điệp từ “Thương thay” được đặt ở đầu câu, đã nhấn mạnh nỗi vất vả, gian khó, thân phận thấp hèn của người dân lao động khi xưa. Qua đó, ta thêm cảm thông hơn với những ngày tháng đất nước còn chìm trong đêm trường áp bức, bóc lột của bè lũ quan tham, địa chủ còn tồn tại. Những câu ca dao sẽ mãi còn giá trị với thế hệ con cháu mai sau

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Th Vinh
16/08/2021 19:49:20
+4đ tặng

Từ xa xưa, những bài ca dao Việt Nam với âm hưởng da diết, nhịp nhàng, dễ nhớ, dễ thuộc đã được người dân sáng tác và lưu truyền cho tới ngày nay. Nội dung của các bài ca dao ấy cũng rất phong phú, có những bài ca dao được sáng tác để phản ánh lịch sử, có những bài được sáng tác nhằm phản ánh đời sống tình cảm nhân dân hoặc phản ánh đời sống xã hội cũ. Trong số các bài ca dao phản ánh đời sống xã hội cũ thì bài ca dao “thương thay thân phận con tằm” là một ví dụ tiêu biểu, nêu lên thân phận bé nhỏ của người nông dân trong xã hội cũ giống như những con tằm, con kiến.

Bài ca dao còn là tiếng nói của những con người thấp bé trong xã hội phải vất vả làm lụng, bài ca dao cũng là lời tố cáo xã hội phong kiến bất công, tàn ác đã chèn ép người dân đến bước đường cùng.

Bài ca dao “thương thay thân phận con tằm” được viết theo thể thơ lục bát, âm hưởng của bài ca dao mềm mại, câu từ mộc mạc, giản dị đã làm cho bài ca dao trở nên phổ biến trong dân gian Việt Nam:

“Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”.

Hình ảnh “con tằm” và “con kiến” trong 4 câu thơ đầu của bài ca dao chính là những hình ảnh ẩn dụ cho những thân phận “bé nhỏ” trong xã hội cũ, họ là những người có địa vị thấp kém phải lam lũ làm ăn và chịu sự đàn áp của những kẻ có địa vị trong xã hội. Thân phận con tằm đã bé nhỏ, chỉ được ăn lá dâu nhưng lại phải nhả tơ – thứ tơ vàng óng ánh dùng để dệt thành vải, lụa và tạo ra những sản phẩm cao cấp có giá trị. Sau khi nhả tơ xong, con tằm cũng hết giá trị và đồng nghĩa với việc cuộc đời của nó cũng kết thúc. Như vậy hình ảnh con tằm nhả tơ chính là một đại diện cho những người lao động trong xã hội cũ, họ bị bóc lột sức lao động để tạo ra của cải cho địa chủ, khi sức lao động yếu đi họ cũng sẽ bị sa thải hoặc bị đối xử tệ bạc và tàn ác.

Hình ảnh con kiến li ti khiến người ta có cảm giác thật bé nhỏ, những chú kiến ấy mải miết ngược xuôi để tìm mồi. Những chú kiến ấy cũng giống như những người nông dân ngày ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, đi sớm về khuya nhưng cuộc sống vẫn khó khăn vất vả.

“Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời.
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”.

Hình ảnh cánh chim, con hạc, con cuốc nhà những hình ảnh vô cùng quen thuộc trong ca dao, có lẽ những người nông dân lao động tìm thấy sự đồng điệu giữa hình ảnh gầy guộc, lầm lũi của con vật với chính bản thân mình. Những chú chim mải miết bay đi tìm ăn, bay đến mỏi cánh mà không biết ngày nào sẽ kết thúc cuộc hành trình ấy, cũng giống như cuộc đời phiêu bạt lận đận của những người dân lao động. Những con người bé nhỏ ấy phải cố gắng kiếm sống ngày qua ngày mà không biết khi nào cuộc sống ấy mới chấm dứt, không biết bao giờ mới hết đói hết khổ.

Hình ảnh con cuốc ở hai câu thơ cuối mới đáng thương làm sao, con cuốc bé nhỏ giữa bầu trời rộng lớn dẫu có kêu gào đến mức nào cũng không có ai thấu hiểu, không có ai lắng nghe. Con cuốc ấy cũng là hiện thân của người dân lao động thấp cổ bé họng, dù họ có kêu tới mức nào thì cũng không ai hiểu cho nỗi khổ của họ, không ai có thể cứu vớt họ khỏi cuộc sống tăm tối, khổ cực. Họ hoàn toàn không nhận được sự đồng cảm của mọi người, đặc biệt là giai cấp thống trị xã hội lúc bấy giờ vì vậy tiếng kêu than của họ cũng trở nên vô vọng.

Những người lao động xưa khi nhìn thấy những con vật bé nhỏ tội nghiệp thường có sự đồng cảm bởi chính họ cũng nhỏ bé, tội nghiệp như những con vật ấy. Từ “thương thay” được lặp đi lặp lại trong suốt bài ca dao đã nhấn mạnh sự xót xa vô hạn, nỗi thương cảm vô bờ của người dân lao động đối với những con vật bé nhỏ và cũng chính là niềm thương cảm đối với bản thân họ.

Xã hội phong kiến giống như địa ngục trần gian của những người nhân dân lao động, cuộc sống lầm than khổ cực khiến họ phải cất tiếng than ai oán qua những bài ca dao. Những bài ca dao ấy vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay và đó sẽ là kho tàng văn hóa dân gian vô giá của dân tộc Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam chúng ta có nhiệm vụ phải gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, biết quý trọng hiện tại và cống hiến hết mình cho Tổ Quốc.

0
0
Trần Hà
16/08/2021 19:49:27
+3đ tặng
Bài ca dao “Thương thay thân phận con tằm9 gồm có tám câu lục bát. Hai chữ “thương thay” được điệp lại bốn lần và đứng ở vị trí đầu câu “lục” đã làm cho giọng điệu bài ca dao đầy xót thương.

“Con tằm” và “lũ kiến9 là hai ẩn dụ nói về những thân phận “nhỏ bé” sống âm thầm dưới đáy xã hội cũ. Thật đáng “thương thay", thương xót cho những kiếp người phải làm đầu tắt mặt tối mà chẳng được ăn, được hưởng một tí gì! Khác nào một kiếp tằm, một kiếp kiến !

“Thương thay thân phận con tằm,
Kiểm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li tỉ,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”

Kiếp tằm “phải nằm nhả tơ”, kiếp kiến “phải đi tìm mồi”, nhưng “kiếm ăn được mấy”. Điệp ngữ “kiếm ăn được mấy” cất lên hài lần đã tố cáo và phản kháng xã hội cũ bất công, kẻ thì “ngồi mát hưởng bát vàng”, “kẻ ăn không hết, người lần không ra”.

Hạc, chim, con cuốc, là ba ẩn dụ nói về những thân phận, số phận nếm trải nhiều bi kịch cuộc đời. “Hạc” muốn tìm đến mọi chân trời, muốn “lánh đường mây" để thỏa chí tự do, phiêu bạt. “Chim” muốn bay cao, bay xa, tung hoành giữa bầu trời, nhưng chỉ “mỏi cánh” mà thôi. Đó là những cuộc đời phiêu bạt, những cố gắng vô vọng của người lao động trong xã hội cũ, thật “thương thay” thật đáng thương !

“Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi”

Thân phận con cuốc càng đáng “thương thay” ! Nó đã “kêu ra máu” giữa trời mà “cố người nào nghe”, nào có được cảm thông, được san sẻ. “Con cuốc” trong văn cảnh này biểu hiện cho nỗi oan trái, cho nỗi đau khổ của nhân dân lao động không được lẽ công bằng nào soi tỏ. Càng kêu máu càng chảy, càng đau khổ tuyệt vọng:

“Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”

Ngoài cách sử dụng điệp ngữ và ẩn dụ, những câu hát than thân này còn được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ: “kiếm ăn được mấy”, “biết ngày nào thôi”; “có người nào nghe”. Giá trị phản kháng và tố cáo càng trở nên sâu sắc, mạnh mẽ.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo