Ông bà tổ tiên:
TỤC NGỮ:
- Uống nước nhớ nguồn.
- Chim có tổ người có tông
- Cây có cội, nước có nguồn.
- Nước có nguồn, cây có gốc.
- Mạch trong nước chay ra trong, thế nào đi nữa còn dòng cũng hơn.
- Đàn anh có mả, kẻ cả có dòng.
CA DAO :
- Con người có cố có ông
Như cây có cội như sông có nguồn.
- Cây kia ăn quả ai trồng
Sông kia uống nước hỏi dòng từ đâu.
- Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày gỗ tổ mùng mười tháng ba.
- Tháng ba nô nức hội đền
Nhớ ngày giổ tổ bốn nghìn năm nay.
- Sống thì con chẳng cho ăn
Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi.
- Miền Bắc:
- Ai qua phố Nhổn phố Lai
Dừng chân ăn miếng chả đài thơm ngon
Ngọt thay cái quả cam tròn
Vừa thơm vừa mát hãy còn ở Canh .
- Ai sang Hà Nội
Nhắn nhủ hàng hương
Giữ lấy đạo thường
Chớ đánh lửa mà đau lòng khói
Có điều chi xin người cứ nói
Có điều gì đã có chúng tôi đây.
- Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây.
- Ai về Nội Duệ, Cầu Lim
Nghe câu quan họ, đi tìm người thương.
- Ai về giã gạo ba giăng
Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm.
- Miền Trung:
Ai bưng cau trầu tới đó, chịu khó bưng về
Em đây vốn thiệt không chê
Nhưng muốn ở làm ri nuôi thầy với mẹ cho trọn bề hiếu trung.
- Ai câu xuống Lố ông già
Ngâm thơ Mũi Điện, ngắm hoa Ao Hồ.
- Ai ơi liệu sức mà bê,
Chớ đừng cố mạng là đồ cả mô.
- Ai ơi về với Sông Hinh,
Đất màu lắm cá, lình xình làm chi?
- Ai vào Đà Nẵng mà nghe
Nói thơ chàng Lía, hát vè Quảng Nam.
- Miền Nam:
- Ai bưng cau trầu đến đó
Xin chịu khó mang về
Em đang theo chân thầy gót mẹ
Để cho trọn bề hiếu trung.
- Ai buồn ta cũng buồn dùm,
Ai vui ta cũng vui dùm cho ai.
- Ai làm cho Ba nọ âu sầu
Ăn cơm chẳng đặng, ăn trầu giải khuây.
- Ai làm cho cải tôi ngồng
Cho dưa tôi héo, cho chồng tôi chê
Chồng chê thì mặc chồng chê
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.
- Ai ơi được ngọc đừng cười
Ta đây được ngọc rụng rời tay chân.