Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về người lính trong thời kì chống Pháp

3 trả lời
Hỏi chi tiết
6.332
9
4
Nguyễn Nhật Thúy ...
05/01/2019 21:31:56
Hình tượng người lính trong kháng chiến là đề tài thu hút nhiều bút lực. Đó là anh hùng áo vải sẵn sàng hi sinh tính mạng cho nhân dân đất nước, nhiều nhà thơ đã viết về họ… Và trong đó không thể không kể đến một bài thơ " Đồng Chí" của Chính Hữu. Bài thơ được viết đầu năm 1948 những năm đầu của cuộc kháng chiến chống pháp vô cùng khó khăn gian khổ cả về vật chất lẫn tinh thần, đời sống kháng chiến. Nhưng tinh thần đoàn kết thương yêu của đồng chí, đồng đội họ đã vượt qua để chiến đấu chiến thắng.
Chính Hữu viết " Đồng Chí" hướng ngòi bút vào chất hiện thực đời sống kháng chiến khai thác cái đẹp trong cái giản dị chân thực, đời thường tình đồng chí đồng đội thắm thiết sâu nặng của người lính cách mạng rất tự nhiên như vốn có ngoài đời, đúng với phẩm chất người lính cụ Hồ, giản dị mà anh hùng.
Trước hết tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hai câu thơ giới thiệu quê hương của những người lính " anh", " tôi" đều là những người lính xuất thân từ nông dân. Thành ngữ " nước mặn đồng chua" chỉ vùng ven biển đất khó làm ăn. " Đất cày sỏi đá" là vùng đồi núi trung du khó canh tác. Nghĩa là họ đều chung cái nghèo khó, là cơ sở đồng cảm về giai cấp của những người lính. Và chính điều đó khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng, rồi trở lên thân quen với nhau, khi họ cùng chung niềm vui đánh giặc.
"Súng bên súng đầu sát bên đầu"
Hình ảnh thơ sóng đôi, họ không chỉ chung nghĩ vụ trí hướng mà tình đồng chí cùng gắn bó chặt chẽ kề vai sát cánh bên nhau, đối mặt với quân thù. Khi màn đêm buông xuống, đôi bạn lính lại cùng chung một tấm chăn mông nỉ rỉ truyện nhà, truyện cửa, truyện gian nan khó nhọc – Họ thành đôi tri kỉ. Đôi bạn trí cốt hiểu nhau sâu sắc.
"Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Câu thơ đầy ắp kỉ niệm và ấm áp tình thân hữu. Lời thơ thứ 7 gồm một từ với hai tính cùng dấu "!" tạo một nốt nhấn, như một tiếng gọi thiết tha xúc động vừa như một phát hiện, kết luận vừa như bản nề gắn kết hai đoạn thơ làm nổi rõ một tất yếu. Cùng hoàn cảnh xuất thân, lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau và mở ra ý tiếp đồng chí còn là như thế nào nữa? Vậy cách lập dàn ý đó tạo lên một kếu cấu đặc sắc cho bài thơ.
Những câu thơ tiếp theo mở ra những biểu hiện cụ thể, cảm động về tình đồng chí, giữa những người lính trong đời sống chiến tranh, từ đồng cảnh họ trở thành đồng cảm.
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính".
Lời thơ nói về " anh" – về bạn bởi người lính cùng chung hoàn cảnh, chung nỗi niềm, hiểu bạn như hiểu mình. Khi đất nước bị xâm lăng, tinh thần dân tộc thôi thúc họ lên đường và trở thành người lính. Hậu phương nhà cửa gửi lại hậu phương. Hình ảnh " gian nhà… lung lay" gây xúc động đến nao lòng. Gian nhà không – gian nhà trống không tài sản có phần siêu vẹo bởi gió lung lay gợi ra hoàn cảnh nghèo khó tận cùng của người lính nông dân. Song họ vẫn vui vẻ lên đường vi nghĩa lớn. Thái độ dứt khoát kiên quyết nhưng tâm tư vẫn luôn hướng về hậu phương. Giếng nước gốc đa nhớ người da lính. Nghệ thuật nhân hóa hoán dụ diễn tả quê hương nhớ người đi lính, nhưng thực chất người đi lính nhớ nhà, gốc đa giếng nước nơi chứng kiến cuộc chia li lên đường… Những kỉ niệm ấy luôn leo đậu trong tâm tư và họ sẻ chia cho nhau đồng cảm niềm vui nỗi buồn. Tình cảm đồng chí đặc biệt được thể hiện ở sự chia sẻ tâm tư nỗi niềm. Những gian nao thiếu thốn của cuộc đời người lính biết bao gian khổ.
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Ảo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay".
Những câu thơ miêu tả hiện thực đời sống người lính tới từng chi tiết khó khăn gian khổ, thiếu thốn bệnh tật. Những cơn sốt rét rừng hành hạ là có thực, đói rét, chân không giầy, đầu không mũ, áo phong phanh một manh, quần rách vá là thực. Sương muối phủ rừng hoang… Bút pháp hiện thực thể hiện qua những câu thơ sóng đôi góp phần diễn tả sự sẻ chia trong mọi cảnh ngộ… Song cái đẹp nhất, quý giá nhất ở người lính là tình đồng đội, thương nhau tay nắm… tay. Trong đói rét hiểm nguy người lính đã tìm hơi ấm nơi bàn tay nhau, truyền cho nhau tình cảm sức mạnh vượt lên. Cuộc chiến đấu trường kì gian khổ là thế, bộ đội ta chỉ có tình đồng chí đồng đội, tình yêu thương giai cấp là nền tảng cơ sở để tồn tại. Tiếp sức cho nhau, tiếp tục chiến đấu thắng lợi cuối cùng.
Nhiệm vụ chủ yếu của người lính là đánh giặc vì vậy tình đồng chí cao đẹp nhất là tình đồng chí gắn bó thiêng liêng nơi tuyến đầu chống giặc, nơi sự sống và cái chết kề nhau trong tích tắc.
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chở giặc tới
Đầu súng trăng treo".
Ba câu thơ dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí trong hoàn cảnh khắc nhiệt: Đêm, rừng hoang, sương muối đôi bạn chiến đấu tạo lên tư thế vững trãi, nương tựa vào nhau. Người lính trong cảnh phục kích giặc giữa rừng khuya còn có những người bạn nữa – Vầng trăng, " đầu súng trăng treo" là hình ảnh được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích của chính tác giả. Nhưng hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng gợi ra liên tưởng phong phú " súng và trăng là gần và sa". Thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất chữ tình. Chiến sĩ và thi sĩ. Đó là các mặt bổ sung cho nhau hài hòa với nhau về cuộc sống cách mạng.
Hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp hiện lên trong bài thơ thật giản dị chân thật hàm xúc, giàu sức biểu cảm. Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ, lí tưởng chiến đấu. Đã góp phần quan trọng tạo lên vẻ đẹp sức mạnh tinh thần của người lính cách mạng. Bài thơ giản dị nhưng để lại trong người đọc nhiều rung cảm sâu sắc là bằng chứng xác thực về một thời oanh liệt tình người cao đẹp.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
3
2
Quỳnh Anh Đỗ
06/01/2019 07:37:04

Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu đánh Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời đánh Mĩ đã được phản ánh khá rõ nét với những vẻ đẹp khác nhau. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu sáng tác năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo. Hình ảnh người nông dân cầm súng được miêu tả trong bài thơ với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thật lãng mạn, bay bổng.

Là những nông dân quanh năm lam lũ với con trâu, mảnh ruộng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện từ giã quê hương đi chiến đấu. Phần đông chưa biết chữ, vào quân đội mới bắt đầu học i tờ nhưng họ lại rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản mà rất đúng đắn rằng: chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc cũng là bảo vệ mảnh vườn, thửa ruộng, mái ấm gia đình. Quyền sống thiết thực của mỗi con người đã thôi thúc họ hành động.

Cuộc đời chiến sĩ gian nan, vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định phẩm chất cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Từ bốn phương trời, không hẹn mà nên, họ gặp nhau, trở thành đồng đội, đồng chí của nhau.

Sinh ra và lớn lên từ những vùng quê nghèo khổ, cơ cực, các anh mang bản chất hồn nhiên, chất phác của người lao động. Đi chiến đấu chống xâm lăng, các anh để lại sau lưng lũy tre, mảnh ruộng quen thuộc và mái tranh nghèo cùng với những người thân. Ruộng nương anh gửi bạn thân cày, Gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Mặc kệ là lối nói tự nhiên, mộc mạc của người nông dân, bày tỏ thái độ dứt khoát trọng việc nước hơn việc nhà.

Dứt khoát thế nhưng không khỏi nhớ tới quê hương, làng mạc, gia đình. Nỗi nhớ của các chiến sĩ đơn giản và cụ thể: ruộng nương, giếng nước, gốc đa, mái tranh... gắn liền với nơi chôn nhau cắt rốn là những miền quê nghèo khó.

Trong môi trường quân đội, các anh gắn bó, chiạ sẻ vui buồn, gian khổ, sông chết với nhau. Còn gì chân thành hơn, tin tưởng hơn cái xiêt tay của đồng đội truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau lúc gian nan, nguy hiểm?!

Buổi đầu kháng chiến, quân và dân ta đánh giặc gần như với hai bàn tay trắng. Bộ đội có gì mặc nấy, có gì dùng nấy, đâu được trang bị đầy đủ như bây giờ. Đẹp biết mấy là nụ cười lạc quan của người chiến sĩ. Cười trong buốt giá là thái độ coi thường khó khăn, gian khổ, là niềm tin vững chắc vàọ ngày mai chiến thắng.

Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Đó là hình ảnh đơn sơ mà tuyệt vời thi vị về anh Vệ quốc thời kì đầu kháng chiến, đồng thời cũng là lời ngợi ca tình đồng chí thiêng liêng giữa những con người đang kề vai sát cánh bảo vệ Tổ quốc, đem lại cuộc sống thanh bình cho dân tộc.

Nếu bài thơ Đồng chí là hình ảnh của người lính Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp thì Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của người lính Giải phóng trong kháng chiến chống Mĩ gian khổ và quyết liệt.

Người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn vô cùng dũng cảm, có sức chịu đựng gian khổ tuyệt vời nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng. Xe lăn bánh cũng có nghĩa là người chiến sĩ lái xe bắt đầu bước vào trận đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc nhưng họ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có.

Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, là tình cảm tất cả vì miền Nam ruột thịt, là chân lí "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc khảng khái tuyên ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men... để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.

Ai đã từng một lần đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ mới thấu hiểu những gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh hiểm trở. Mùa mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì bom đạn giặc Mĩ liên tục trút xuống những đoàn xe nối nhau ra mặt trận. Xe có kính người lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào!

Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin khiến người lái xe tưởng như nhìn thấy gió và bụi. Gió làm cay mắt, chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt đắng thì quả là độc đáo và hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách thức cái khí hậu khắc nghiệt của rừng núi Trường Sơn. Không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn, do đó mà tác động của cảnh vật đối với sự cảm nhận của con người tăng lên gấp bội; sao trời ban đêm, cánh chim ban ngày như sa, như ùa vào buồng lái. Xe lao lên phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe có cảm giác nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng một ý nghĩa sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái tim người lính.

Mỗi vất vả, gian nan đều được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Gian khổ tột cùng nhưng hào hùng cũng tột bực. Đó là chất lạc quan thanh thản của một dân tộc, chất dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, phớt đời, pha chút ngang tàng, rất lính.

Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau:

Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước.

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in dấu rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam - tiền tuyến lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối là một hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.

Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản, lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong mưa bom, bão đạn xứng đáng tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời đánh Mĩ.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ tự sự nhưng đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo độc đáo, nhịp thơ tự do, phóng khoáng... Tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của bài thơ. Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.

Hai bài thơ của hai nhà thơ chiến sĩ được sáng tác trong hai hoàn cảnh, thời điểm khác nhau nhưng cùng chung bút pháp lãng mạn và hiện thực và đều nhằm mục đích ca ngợi vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh giữ nước.

Xuyên suốt mỗi bài thơ là cái tình, là trách nhiệm công dân của người chiến sĩ trước vận mệnh đất nước. Tự nguyện dấn thân, chấp nhận gian khổ, hi sinh, trước sau giữ vững chí khí anh hùng và quyết tâm chiến đấu... đó là những nét đẹp nổi bật của hình tượng người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu và Phạm Tiến Duật.

4
3
Nhok Phượng Núi
06/01/2019 10:03:48

Từ buổi đầu dựng nước đến nay, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Trong đó phải kể đến hai cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ vô cùng gian khổ. Cứ mỗi lúc đất nước gặp hiểm nguy, thanh niên Việt Nam lại nô nức lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc. Và họ đã trở thành những biểu tượng người lính dũng cảm, kiên cường được khắc hoạ chân thực trong hai tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Ở hai thời kì khác nhau, dưới hai ngòi bút khác nhau, những người lính cách mạng trong hai bài thơ đều mang trong mình phẩm chất bộ đội Cụ Hồ, anh dũng, gan dạ và lòng yêu Tổ quốc sâu nặng. Họ là những người cùng chung lí tưởng, cách mạng cao đẹp là nguyện phấn đấu, hi sinh vì Tồ quốc, vì độc lập tự do của dân tộc. Đặc biệt, sau hơn hai mươi năm từ khi Đồng chí được ra đời thì lớp đàn con, đàn cháu của những người lính thời chống Pháp từng súng bên súng, đầu sát bên đầu hay thương nhau tay nắm lấy bàn tay vẫn giữ trong mình truyền thống, tình đồng đội thiêng liêng, cao cả. Từ trong mưa bom, bão đạn của chiến tranh, những chiếc xe không kính lại hội tụ về đây họp thành tiểu đội xe không kính:

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua của kính vỡ rồi.

Từ những cái bắt tay ấy, họ trao cho nhau cả niềm tin, hi vọng và sức mạnh. Nhưng, điểm khác ở họ là ý thức giác ngộ cách mạng. Những năm đầu chống Pháp, chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ nên về nhận thức chiến tranh của những người lính còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời chống Pháp.

Và nếu như trong Đồng chí thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính những chiến sĩ lái xe phải tắm trong mưa bom, bão đạn, phải chịu sự dày vò của thời tiết trên tuyến đường Trường Sơn hiểm trở: Bụi phun tóc trắng như người già, Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Nhưng họ vẫn bất chấp, hiên ngang để vượt qua tất cả, họ vẫn thật lạc quan, yêu đời, và tinh nghịch, vẫn giữ trong mình một phong cách rất lính. Và gia đình của họ là ở nơi chiến hào, với đồng đội thân yêu, chứ không phải là ở hậu phương, nơi có mẹ già, vợ dại, con thơ như những chiến sĩ trong tác phẩm Đồng chí.

Vậy là dù có ở đâu, trong thời điểm nào ta vẫn cảm thấy sự anh dũng đáng khâm phục, bất chấp khó khăn gian khổ của chiến tranh. Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã hoá thân vào các chiến sĩ Việt Nam để khắc hoạ thật sinh động hình ảnh của họ, để lại cho đời những bức chân dung tuyệt đẹp.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư