Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về số phận nghiệt ngã của nhân vật Vũ Nương

6 trả lời
Hỏi chi tiết
1.051
1
0
Ori
02/06/2019 20:33:31
Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ XVI. Ông sống ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương.
Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con gái thuỳ mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau.
Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Ta thấy Vũ Nương quả là một người vợ hiền, có ý thức giữ gìn hạnh phúc gia đình. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên. Vũ Nương là người không ham danh vọng mà luôn khao khát hạnh phúc gia đình, không những thế, nàng còn hiểu, thông cảm cho nỗi vất vả gian lao của chồng: chỉ e việc quán khó liệu, thế giặc khôn lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao...
Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ nhung khôn xiết của người vợ yêu chồng thuỷ chung: nhìn trăng soi thành của, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa...
Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người mẹ mất, nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của bà mẹ trước lúc lâm nguy tác giả đã gửi gắm tình hình của mình đối với nhân vật Vũ Nương, khẳng định công lao, nhân cách của Vũ Nương đối với gia đình: Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ.
Ta thấy ở Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ. Trương Sinh quả thực đã hồ đồ, cả ghen, không cho vợ được thanh minh. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân trần giãi bày hết sức thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, vì mất danh dự, Vũ Nương hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ bằng những lời than thấu tận trời xanh: Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.
Thế nhưng, lời lẽ không làm lung lay được thói độc đoán, gia trưởng hồ đồ của người chồng có máu ghen tuông mù quáng. Vũ Nương đã phải đau đớn, thất vọng đến tột cùng vì bị đối xử bất công, vì bất lực không có khả năng bảo vệ danh dự, niềm khát khao hạnh phúc gia đình bị tan vỡ: Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Thế nhưng, lời nguyền thảm thương của Vũ Nương không giúp nàng thoát khỏi án oan nghiệt ngã. Là một người phục nữ có ý thức sâu sắc về phẩm giá, Vũ Nương đã quyết liệt tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự chứ không chịu sống nhục. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.
Bằng cách xây dựng tình tiết truyện đặc sắc đầy kịch tính, tác giả cho ta thấy những cố gắng hết sức nhưng không thành của một người phụ nữ, để rồi phải chấp nhận số phận và nàng đã phải giải thoát kịch của cuộc đời mình bằng cái chết oan khuất. Sự việc này đã đẩy câu chuyện đến đỉnh điểm của sự việc. Đến khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ cũng bằng sự việc hết sức ngẫu nhiên mà hợp lí. Đó là khi bé Đản chỉ Trương Sinh cái bóng trên tường chính là cha của mình. Điều đó có ý nghĩa tố cáo vô cùng mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến, chỉ một cái bóng cũng có thể quyết định số phận một con người, đẩy người phụ nữ nết na bất hạnh vào bi kịch không lối thoát.
Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương cảm cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ. Thông qua bi kịch của Vũ Nương, nhà văn phản ánh bi kịch chung về số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Những người phụ nữ ấy nết na, đức hạnh như bị đối xử bất công, vô nhân đạo không có quyền sống hạnh phúc, không được che chở, bảo vệ số phận vô cùng mỏng manh, yếu ớt. Có lẽ vì thế mà truyện đã in sâu đậm vào trái tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
4
0
doan man
02/06/2019 20:39:59
"Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương".
Ngàn năm trôi qua, làn khói viếng "miếu vợ chàng Trương" vẫn muôn đời lan tỏa, vấn vương, như tiếc như thương cho số phận đầy bi kịch của Vũ Nương. Bằng ngòi bút đầy trân trọng trong "Chuyện người con gái Nam Xương", Nguyễn Dữ đã tạc vào lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh một người phụ nữ thời phong kiến, một Vũ Nương, đại diện cho cái đẹp hoàn mỹ. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời nàng lại chất chứa những trang buồn đầy nước mắt.
Tên nàng là "Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương", đã đẹp người lại đẹp nết. Trương Sinh, chồng nàng, là một người thất học lại thêm tính đa nghi. Khi binh đao loạn lạc, Trương phải ra trận. Một tuần sau, nàng sinh con trai đầu lòng và một mình chăm sóc mẹ chồng, lo tang ma khi mẹ chồng mất. Giặc tan, chàng Trương về, nghe lời con trẻ mà nghi ngờ lòng thủy chung của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành trẫm mình, nhưng nàng được Linh Phi ở động Rùa cứu giúp. Sau đó, nàng gặp Phan Lang, người hàng xóm đã cứu Linh Phi, nhờ Phan Lang gửi hộ lời với chàng Trương. Trương Sinh hối cải, lập đàn giải oan theo lời Vũ Nương. Nàng hiện lên gặp chồng con rồi lại quay về động Rùa vì hai người đã "âm dương đôi đường". Nhưng hình ảnh Vũ Nương không dừng lại ở đó mà còn mãi vấn vương trong lòng người đọc bởi nét đẹp hoàn mỹ cũng như số phận oan khuất và cái chết đầy bi thảm của nàng.
Vũ Nương chính là đại diện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Không như Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế nét đẹp "nghiêng nước nghiêng thành" của Thúy Kiều, Nguyễn Dữ chỉ điểm qua nhẹ nét đẹp của Vũ Nương: "tư dung tốt đẹp". Nhưng chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy, tác giả đã phần nào khắc họa được hình ảnh một cô gái có nhan sắc xinh đẹp. Cũng bởi "mến vì dung hạnh" nên chàng Trương đã lấy nàng làm vợ. Nhưng chữ "dung" ấy, vẻ đẹp hình thức ấy, chẳng thể nào tỏa sáng ngàn đời như vẻ đẹp tâm hồn nàng. Vũ Nương "vốn con kẻ khó", song rất mực tuân theo "tam tòng tứ đức", giữ trọn lề lối gia phong và phẩm hạnh của chính mình. Thế nên, nàng rất "thùy mị, nết na". Trong gia đình chồng, nàng luôn "giữ gìn khuôn phép, không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa". Thế là, "hạnh", một trong những tiêu chuẩn đánh giá con người, nàng đã vẹn tròn. Lễ nghĩa, nàng cũng thông hiểu, am tường. Tuy chẳng phải tiểu thư khuê các, con nhà quyền quý nhưng lời nàng nói ra dịu dàng như vàng như ngọc.
Ngày tiễn chồng ra trận, nàng đã dặn rằng: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Từng lời, từng chữ nàng thốt ra thấm đẫm tình nghĩa vợ chồng thủy chung, son sắt, khiến "mọi người đều ứa hai hàng lệ". Phận làm vợ, ai chẳng mong phu quân mình được phong chức tước, áo gấm về làng. Còn nàng thì không. Nàng chỉ ước ao giản dị rằng chàng Trương trở về được bình yên để có thể sum họp, đoàn tụ gia đình, hạnh phúc ấm êm như ngày nào. Nhưng mong ước của nàng đã không thực hiện được. Bị chồng một mực nghi oan, Vũ Nương tìm mọi lời lẽ để chứng minh sự trong sạch của mình. Nàng vẫn đoan trang, đúng mực, chỉ nhẹ nhàng giải thích: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng. Ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp". Lời nói của nàng luôn từ tốn, nhẹ nhàng, không quá hoa mỹ nhưng chất chứa nghĩa tình.
Chỉ qua những lời thoại, từ "ngôn" của Vũ Nương đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc bởi vẻ từ tốn, tế nhị của nàng. Và cũng từ những câu nói ấy, chúng ta cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của nàng vì chồng con, gia đình. Khi chồng ra trận, cả giang san nhà chồng trĩu nặng trên đôi vai gầy guộc, mỏng manh của nàng. Nàng phải sinh con một mình giữa nỗi cô đơn lạnh lẽo, thiếu sự vỗ về, an ủi của người chồng. Thật là một thử thách quá khó khăn với một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nhưng nàng vẫn vượt qua tất cả, một mình vò võ nuôi con khôn lớn, đợi chồng về. Không những thế, nàng còn hết lòng chăm lo cho mẹ chồng ốm nặng: "Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Thời xưa, quan hệ mẹ chồng - nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
"Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi
Biết rằng có được ở đời với nhau
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp, cho đau lòng chàng".
Nhưng nàng đã yêu thương mẹ chồng như chính cha mẹ ruột của mình. Mọi việc trong nhà đều được nàng chăm lo chu tất. Và lời trăn trối cuối cùng của mẹ chồng như một lời nhận xét, đánh giá, một phần thưởng xứng đáng với những công lao và sự hy sinh cao cả của nàng vì gia đình nhà chồng: "Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Tác giả đã một lần nữa nhắc lại: "Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như với cha mẹ đẻ mình", như tô đậm tình yêu thương của nàng đối với mẹ chồng. Vũ Nương là một nàng dâu đảm đang, thảo hiền trong mắt tất cả mọi người. Vậy là cả "công - dung - ngôn - hạnh" nàng đều vẹn toàn. Nàng chính là đỉnh cao của sự hoàn mỹ về cả vẻ đẹp hình thức lẫn tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam xưa dưới chế độ phong kiến. Song, số phận chẳng hề mỉm cười với nàng.
Cuộc đời Vũ Nương tiêu biểu cho số phận oan trái của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Nàng gặp bao bất hạnh trên đường đời. Chiến tranh tàn khốc đã khiến bao gia đình li tán. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, Trương Sinh phải đi lính, giao phó cả giang san nhà chồng trên đôi vai bé nhỏ của người thiếu phụ. Tất cả mọi việc trong nhà đều trông cậy vào nàng. "Khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Đản". Thiếu vắng sự quan tâm, săn sóc của người chồng, song nàng vẫn nuôi nấng, dạy dỗ con thơ khôn lớn, trưởng thành. Vừa một mình chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng, Vũ Nương vừa sinh con trai, lại thầm lặng, tần tảo nuôi con và cũng một mình lo ma chay, chôn cất mẹ chồng chu đáo. Từng ngày từng ngày trôi, bấy giờ, trên đôi vai bé nhỏ của nàng khó khăn lại chồng chất khó khăn.
Rồi chiến tranh cũng qua, cứ ngỡ Vũ Nương lại được sum họp gia đình, đoàn viên cùng chàng Trương, được sống trong hạnh phúc lứa đôi mà nàng hằng ao ước. Nàng đâu biết rằng bi kịch cuộc đời nàng sắp bắt đầu. Những ngày xa chồng, nàng đã âm thầm nuôi con, và nàng xót xa biết bao khi nhìn cảnh con thơ thiếu vắng sự chăm sóc, yêu thương của người cha. Thế là nàng đã chỉ bóng mình trên tường mà bảo với con rằng ấy chính là cha Đản. Hành động ấy chẳng phải vì nàng quá thương nhớ chồng mà xuất phát từ tấm lòng yêu thương con vô bờ của một người mẹ. Nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ ngờ được rằng nàng chết chính bởi cái bóng của chính mình. Ngày Trương Sinh về, nghe lời con thơ dại mà hàm oan vợ: "Trước đây có người đàn ông đêm nào cũng đến. Mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả". Trương Sinh vốn là tên thất học, lại thêm "tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức". Lời nói ngây thơ của bé Đản chứa đầy những chi tiết đáng ngờ, như đổ thêm dầu vào lửa. Tính đa nghi của Trương Sinh đã dâng lên đến cao trào và một mực "đinh ninh là vợ hư". Chàng không còn đủ bình tĩnh để phán đoán, phân tích, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng, cũng nhất quyết không nói ra nguyên cớ để nàng có cơ hội minh oan. Và Trương Sinh thoáng chốc hóa một kẻ vũ phu, thô bạo, "mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi".
Vượt qua được mọi gian lao, vất vả trong chiến tranh để vẹn tròn phận dâu thảo hiền nhưng Vũ Nương không thể vượt qua nổi bức tường của chế độ nam quyền độc đoán, bất công, tàn bạo. Lời nói của nàng đầy thương tâm: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu". Ngay từ đầu, cuộc hôn nhân giữa nàng và chàng Trương đã có phần không bình đẳng và mang tính chất một cuộc trao đổi, mua bán: Trương Sinh "xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về". Điều ấy khiến chúng ta chạnh lòng nhớ đến tình cảnh một Thúy Kiều khi phải bán mình chuộc cha:
"Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm".
Sự cách bức về địa vị xã hội như thế đã tạo cho Trương Sinh một cái thế bên cạnh những uy quyền vốn có của người chồng, người đàn ông trong gia đình gia trưởng phong kiến. Chính cái gia đình "chồng chúa vợ tôi", "phu xướng phụ tùy" ấy đã khiến nàng bị khinh rẻ, đối xử tệ bạc. Một người vợ vốn đức hạnh, ngoan hiền, vâng theo cả "tam tòng tứ đức" lại phải mang tiếng xấu "hư thân mất nết". Mọi lời mắng nhiếc của Trương Sinh như chà đạp lên phẩm giá cao đẹp mà nàng đã gìn giữ cả một đời. Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo những "bướm lượn đầy vườn", "mây che kín núi". Thế mà khi vừa mới sum họp hạnh phúc, nàng lại bị gán cho tội danh: "lừa chồng dối con". Thật đau đớn, thật tủi nhục! Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương chính từ lễ giáo bất công và chế độ nam quyền. Người đàn ông với những quyền hành về số phận, cuộc đời người phụ nữ đã đẩy Vũ Nương vào đường cùng không lối thoát.
Cái chết oan khuất, xót xa của Vũ Nương, ai có thể ngờ người gây ra thảm kịch ấy chính là chồng và con nàng, những người thân mà nàng hết mực yêu thương, chăm sóc. Nàng, một người con gái luôn khao khát hạnh phúc dù chỉ nhỏ nhoi, bình dị nhưng cho đến khi trẫm mình xuống sông thì cuộc đời nàng đúng là một chuỗi dài những bi kịch. Hạnh phúc đâu quá xa vời mà xã hội phong kiến ấy không cho nàng chạm tay đến tận hưởng "thú vui nghi gia nghi thất" một lần duy nhất trong đời. Nỗi oan của nàng thấu cả trời xanh. Ngày xưa, Quan Âm Thị Kính mắc oan giết chồng bởi "tình ngay lý gian". Nhưng nàng Thị Kính cũng còn hiểu ra nỗi oan khuất của mình từ đâu mà thành. Còn khi đã chìm sâu dưới dòng nước, Vũ Nương vẫn không hề biết rằng mình phải chết vì đâu. Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh không những không được bênh vực, che chở mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lý; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hôi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình. Phải chăng đằng sau nỗi oan của nàng còn bao nhiêu nỗi oan của những người phụ nữ khác trong chế độ phong kiến bị rẻ rúng, suốt đời sống trong câm lặng.
Xót thương trước nỗi đau khổ vì bị chà đạp của những người phụ nữ, Nguyễn Dữ như muốn minh oan và bù đắp cho những đức tính tốt đẹp của nàng bằng một cuộc sống khác với dương gian. Nhưng ở chốn "làng mây cung nước", Vũ Nương chẳng thể nào nguôi nỗi nhớ về những oan ức, bĩ cực ở cõi trần. Sống giữa cõi tiên huyền ảo, đẹp diệu kỳ nhưng nàng dường như không bao giờ dứt tình nghĩa gia đình, mãi khóc thương cảnh gia đình tiêu điều xơ xác. Nàng xin lập đàn giải oan, khao khát được trả lại danh dự của một người con gái đức hạnh. Và cuối cùng, nỗi oan của nàng đã được giải. Từ chốn thủy cung, Vũ Nương "ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ sắc màu, lúc ẩn, lúc hiện". Nhưng xót xa thay, nàng "chẳng thể trở về nhân gian được nữa". Nỗi oan tình của nàng đã được minh oan, giải tỏa nhưng âm dương đôi đường cách trở, nàng chẳng bao giờ được làm vợ, làm mẹ chốn cõi trần. Bé Đản mãi mãi là một đứa bé mồ côi mẹ. Nếu nàng được trở về với cõi trần thì liệu xã hội phong kiến bất công không có nơi dành cho cái đẹp này có dành cho nàng một cuộc sống ấm êm, bình yên, hay một lần nữa, nàng phải đau đớn, buồn khổ. Dù quay về chốn tiên cảnh xinh đẹp, nhưng cuối cùng, mơ ước cả đời của nàng, hạnh phúc "nghi gia nghi thất", chỉ mãi là ước mơ hảo huyền.
Hình tượng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của lòng vị tha và vẻ đẹp người phụ nữ. Song cuộc đời nàng gặp nỗi bi kịch lớn. Ấy chính là tấn bi kịch của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ phong kiến tàn ác, chế độ của sự lạc hậu và cả bóng đêm vĩnh cửu. Điều đó khiến chúng ta phải chạnh lòng trước số phận của người phụ nữ.
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
0
0
Xu ẳng Xu ẳng
02/06/2019 20:49:33
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện - Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là "Truyền kỳ Mạn Lục" gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện "vợ chàng Trương". Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của tác giả trước số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ qua nhân vật chính Vũ Nương.
Trước tiên Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp, là người phụ nữ bình dân xuất thân từ gia đình nghèo nhưng nàng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh. Tính đã thùy mị nết na lại thêm tư duy tốt đẹp.
Vẻ đẹp của Vũ Nương mang vẻ đẹp của một người phụ nữ - của chiếc bánh trôi trong thơ của Hồ Xuân Hương "vừa trắng lại vừa tròn". Vì vậy Trương Sinh con nhà hào phú đã xin với mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ, cuộc hôn nhân không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen. Vậy mà trong đạo vợ chồng nàng tỏ ra là một phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính đa nghi hay ghen nàng đã "luôn giữ gìn khuôn phép... thất hòa" chứng tỏ nàng rất khéo léo trong việc vun vén hạnh phúc gia đình.
Sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng quân đi lính nơi biên ải. Buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình yên "chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong... thế là đủ rồi". Ước mong của nàng thật giản dị chỉ vì nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm xa cách Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: "Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể lại không thể nào ngăn được"
Tâm trạng thương nhớ ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của nhiều người chinh phụ trong thời loạn lạc ngày xưa.
"Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
(Chinh phụ ngâm khúc - Đoàn Thị Điểm)
Thể hiện tâm trạng ấy Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa cách chồng của Vũ Nương vừa ca ngợi tấm lòng chung thủy của nàng.
Không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương còn là một người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo, chàng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn. Để bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha Đản, còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Nàng đã làm chọn chữ "công" với nhà chồng. Đây là điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
Tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời trăn trối của bà trước khi qua đời "Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Vũ Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh.
Là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó là thú vui nghi gia, nghi thất - vợ chồng con cái sum họp bên nhau. Thế nhưng cuộc sống của Vũ Nương cũng như cuộc đời của người phụ nữ xưa là những trang buồn đầy nước mắt. Bất hạnh của nàng bắt đầu từ khi giặc tan Trương Sinh trở về, chuyện cái bóng của con thơ đã là Trương Sinh ngờ vực, rồi kết tội Vũ Nương. Chàng đinh ninh là vợ hư, nàng hết lời phân trần để bày tỏ lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả đều vô ích. Vốn có tính hay ghen lại vũ phu ít học.
Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn "mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi", bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Thất vọng đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giãi tỏ nỗi lòng trong trắng của mình. Nàng "tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu... phỉ nhổ". Nói rồi nàng nhảy xuống sông tự vẫn. Vũ Nương bị người thân nhất đẩy xuống bên bờ vực thẳm dẫn đến bi kịch gia đình.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (thân phận người phụ nữ trong XHPK) qua "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, "thà chết trong còn hơn sống đục" với tấm lòng yêu thương con người Nguyễn Dữ không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo. Sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ. Nàng trở về trong thế rực rõ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng trong giây lát rồi biến mất mãi mãi. Vũ Nương mãi mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm vợ, làm mẹ. Bi kịch của Vũ Nương cũng chính là bi kịch của người phụ nữ xã hội xưa. Bi kịch ấy không chỉ dừng ở thế kỉ XVI, XVII, XVIII mà đến đầu thế kỷ XIX Nguyễn Du từng viết trong truyện Kiều:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Với niềm xót thương sâu sắc Nguyễn Dữ lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên những khát vọng chính đáng của con người - của phụ nữ. Ông tố cáo xã hội phong kiến với những hủ tục phi lý, trọng nam khinh nữ, đạo tam tòng bao bất công và hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu sống với hủ tục là thế lực đồng tiền bạc án nên Trương Sinh con nhà hào phú một lúc bỏ ra trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương. Ngoài ra ông còn tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm phá vỡ hạnh phúc gia đình của con người.
Như vậy bằng cách xây dựng truyện hết sức độc đáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tự sự, trữ tình và yếu tố thực ảo. Chuyện "Người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ mang đến cho chúng ta bao ấn tượng tốt đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương có đầy đủ phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại là những trang buồn đầy nước mắt. Vẻ đẹp số phận của nàng cũng là vẻ đẹp số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ. Ngày nay chúng ta được sống trong thế giới công bằng dân chủ, văn minh người phụ nữ là một nửa của thế giới họ được hưởng những quyền lợi mà nam giới được hưởng. Vậy chúng ta hãy phát huy những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa và thương cảm trước số phận của họ.
0
0
Quân Ngô Trí
02/06/2019 21:54:10
Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông học rộng tài cao, nhưng chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn vì bất lực trước thời đại suy yếu của phong kiến. Có thể nói "truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ là một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ ở Việt Nam, trong đó "người con gái Nam Xương" dựa trên tích truyện dân gian nhưng với tài năng sự sáng tạo tuyệt vời và lòng yêu con người tha thiết, Nguyễn Dữ đã làm bao bạn đọc phải rơi lệ xót thương cho cuộc đời và số phận của Vũ Nương - một người phụ nữ đức hạnh nhưng có số phận bất hạnh.
Mở đầu trang - truyện, tác giả Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là một người con gái: "thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp". Mặc dù con nhà nghèo lấy chồng giàu lại có tính đa nghi ít học nhưng do hiền lành nết na lại thông minh, khéo cư xử nên nàng đã san bằng được khoảng cách "môn đăng hộ đối" - một quan điểm nặng nề của lễ giáo phong kiến và giữ được không khí trong gia đình yên ấm, hạnh phúc "chưa từng xảy ra thất hòa". Có thể nói cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của một người vợ hiền, một người dâu thảo, người mẹ hết mực yêu con. Trước hết, Vũ Nương là người vợ hết lòng yêu thương và thủy chung son sắc với chồng. Sống dưới thời loạn lạc vì không có học nên tên Trương Sinh phải ghi vào sổ lính loại đầu.
Trong buổi tiễn đưa chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng bằng lời lẽ dịu dàng, tha thiết "chàng đi chuyến này thiếp chả dám mong đeo được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi". Đọc đến đây, người đọc xúc động trước khao khát, ước mơ bình dị của Vũ Nương. Đằng sau niềm khao khát ước mơ ấy là cả một tấm lòng yêu thương chân thành, đằm thắm vượt ra ngoài cám dỗ vật chất tầm thường "vinh hoa phú quý". Yêu thương chồng, nàng mong mỏi ngày chàng bình yên trở về bởi hơn hết trong lòng nàng cái khát khao lớn nhất là được hưởng thú vui "nghi gia nghi thất" vợ chồng sum họp, con cái đầy đàn, nàng được làm trọn và hưởng hạnh phúc làm mẹ, làm vợ, Khi Trương Sinh ở ngoài mặt trận, tình cảm của nàng luôn hướng về Trương Sinh. Hình ảnh "bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi" là hình ảnh thiên nhiên hữu tình gợi sự trôi chảy của thời gian đã khiến cho "nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Tác giả đã diễn tả thật tinh tế chân thực nỗi niềm nhớ nhung, mong mỏi kín đáo, âm thầm mà da diết của Vũ Nương. Vào mỗi buổi tối, nàng thường trở bóng mình trên vách để bảo là cha Đản, việc làm ấy của nàng đâu chỉ là đơn thuần chỉ để chơi đùa nói với con mà còn là lời nói với mình lòng mình để tự an ủi mình, nàng tưởng tượng ra trong căn nhà nhỏ bé của hai mẹ con lúc nào cũng có hình bóng của Trương Sinh, ý nghĩ ấy là làm vơi đi nỗi cô đơn trống trải trong lòng nàng. Suốt ba năm Trương Sinh đi vắng, nàng đã giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng ngõ liễn tường hoa chưa hề bén góc vẫn một lòng một dạ với chồng Trương Sinh.
Không chỉ vậy, Vũ Nương còn là một người con dâu hiếu thảo. Trong lúc chồng đi vắng, nàng gánh vác mọi công việc, vượt cạn một mình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ mà không một lời kêu than phàn nàn. Khi mẹ chồng ốm, nàng hết lòng thương xót lo ma chay chu đáo như mẹ đẻ của mình. Lời của mẹ chồng trước lúc lâm chung "sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tố con cháu đông đàn xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ" đã minh chứng cho tấm lòng yêu thương chân thành của người con có hiếu. Nàng là người mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc dạy dỗ con, vào mỗi buổi tối nàng thường chỉ cái bóng trên vách và bảo là cha Đản không chỉ để nô đùa cùng con mà còn mong con luôn nhớ tới hình bóng của người ba, nàng còn là người phụ nữ trọng nhân phẩm.
Khi bị vu oan, Vũ Nương đã hết lời tha thiết, thanh minh thề non nguyện biển nhưng không được, nhân phẩm trong trắng bị xúc phạm nặng nề bởi nỗi nhơ thất tiết, nàng đã phải chọn cái chết để minh chứng cho tấm lòng trong sáng, thủy chung của mình. Mặc dù khát khao được sống được hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng nàng cũng quyết đổi mạng sống của mình để bảo vệ nhân phẩm - cái mà nàng quý hơn tất cả, yếu tố kỳ ảo được dùng đã làm hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương, ta hiểu thêm nàng là người nhân hậu, bao dung, ở dưới thủy cung được sống đầy đủ sung sướng quan hệ giữa người với người tốt đẹp nhưng lúc nào nàng cũng đau đáu nhớ về gia đình, chồng con, Câu nói của nàng với Phan Lang khiến người đọc rưng rưng nước mắt "... ngựa hồ gấm gió bắc, chim Việt đậu cành nam, tôi tất phải tìm về có ngày". Lẽ ra nàng có quyền căm thù nơi trần thế đã đẩy nàng vào cái chết oan khuất nhưng trái tim nàng không một chút oán hờn, vẫn nhân hậu vị tha, bao dung. Qua đây, người đọc cảm nhận được Vũ Nương là một người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh.
Nhưng hỡi ơi! thương thay cho số phận oan nghiệt của Vũ Nương, một người phụ nữ cả đời hi sinh để mong muốn được hạnh phúc như Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất, không được hưởng những gì mình đã hi sinh. Nàng phải gặp tình duyên ngang trái khi nàng vẫn còn xuân. Nguyễn Dữ đã cảm thương cho Vũ Nương, người phụ nữ nhan sắc đức hạnh lại phải lấy Trương Sinh - một kẻ vô học, hồ đồ, vũ phu. Thương tâm hơn khi người chồng đó còn có tính đa nghi đối với vợ lúc nào cũng "phòng ngừa quá sức", lấy chồng chưa được bao lâu, nàng đã phải tiễn biệt chồng lên đường đánh giặc. Trương Sinh đi lính để lại gánh nặng cho người vợ trẻ, Vũ Nương thay chồng nuôi mẹ và con.
Sau khi mẹ chồng mất, chỉ còn hai mẹ con Vũ Nương trong căn nhà trống vắng cô đơn. Đọc đến đây, người đọc không khỏi chạnh lòng xót thương cho cho cảnh người vợ trẻ chỉ biết san sẻ buồn vui với đứa con thơ dại. Việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về nhưng Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp chỉ vì chuyện "chiếc bóng" qua miệng đứa con thơ mới tập nói mà Trương Sinh đã "đinh ninh" là vợ hư liền mắng nhiếc, đuổi Vũ Nương đi. Trương Sinh bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ van xin đến rướm máu, lời biện bạch của họ hàng, làng xóm. Nàng đã bị chồng đẩy vào bi kịch bị ghép ngay vào tội không chung thủy, một trong những tội bị người đời phỉ nhổ, nguyền rủa nhất của người phụ nữ phong kiến thời xưa. Nhân phẩm mà nàng coi trọng nhất, quý giá nhất và ra sức giữ gìn thì nay lại bị xúc phạm nặng nề, có thể khẳng định nỗi đau mà nàng phải gánh chịu là quá lớn, nàng đã bị đẩy vào bước đường cùng vào vực thẳm của cuộc đời, nàng phải chọn cái chết trong khi nàng vẫn khao khát được hưởng hạnh phúc gia đình.
Tại sao Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất như vậy? phải chăng là lời nói ngây ngô, vô tình của con trẻ "Ô hay thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi, trước khi chỉ nín thin thít... đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi" đã làm thổi bùng lên ngọn lửa sẵn có trong lòng Trương Sinh, không đâu khác, chính là do chồng nàng - Trương Sinh, một kẻ hồ đồ phũ phu lại ghen tuông, độc đoán, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà đã đinh ninh là vợ hư, bỏ mặc ngoài tai những lời thanh minh biện bạch của vợ, lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, để rồi đẩy Vũ Nương vào cái chết oan nghiệt. Đằng sau trang văn, truyện còn nói lên do lễ giáo phong kiến "trọng nam kinh nữ" và sự bất bình đẳng của kẻ giàu và người nghèo. Đồng thời, còn do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã gây lên cảnh sinh ly, Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương phải chịu nỗi oan, để rồi Vũ Nương phải tìm đến cái chết thê thảm, oan khuất. Tất cả những nguyên nhân trên đã đẩy Vũ Nương đến bước đường cùng phải chọn cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình, cái chết của Vũ Nương chính là tấm bi kịch đau thương, cái chết oan khuất tức tưởi của nàng là một lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến bất công, vô lý, đã cướp đi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người.
Như vậy, "chuyện người con gái Nam Xương" đã vượt lên tư cách một bản lề của truyện cổ tích, "Vợ chồng Trương" bởi sự tái tạo đầy tính nghệ thuật của Nguyễn Dữ, tác giả đã xây dựng được tình huống truyện bất ngờ, tạo nên kịch tính cho câu chuyện với lời nói ngây thơ của bé Đản dẫn đến sự hiểu lầm của Trương Sinh, thành công của truyện hơn tất cả là tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường góp phần tăng thêm tính hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương - một người phụ nữ điển hình trong văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Đó là một phụ nữ hoàn hảo nhưng lại có số phận éo le, bi đát. Cũng giống như Vũ Nương trong xã hội phong kiến xưa còn có biết bao thân phận của người phụ nữ phải sống trong cảnh đời như vậy như hình ảnh của người phụ nữ trong bài thơ "bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương.
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non"
Hay trong "truyện Kiều" của Nguyễn Du có viết:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Tóm lại, "chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ là một áng văn hay - tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ và được người đời đánh giá là "thiên cổ kỳ bút". Truyện vừa thể hiện số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến vừa có ý nghĩa cơ ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha - tiêu biểu là hình ảnh Vũ Nương, qua câu chuyện người đọc càng cảm thấy giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Họ đang phấn đấu vươn lên làm chủ cuộc đời, chủ số phận và họ - những người phụ nữ hiện đại phải được sống bình đẳng, được mọi người tôn trọng như nam giới.
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
03/06/2019 08:21:51
Văn học dân tộc thế kỉ XVI có nhiều tác phẩm xuất sắc viết về thân phận đau thương của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Trong đó thành công là thiên truyện Chuyện người con gái Nam Xương trích truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của tác phẩm Truyện kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Cuộc đời và số phận của nhân vật Vũ Nương là điển hình cho số phận bi kịch của người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống bình yên nhưng lại gặp phải cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh bởi sự ràng buột của những lễ nghi khắc nghiệt.
Trên cơ sở nguồn góc từ truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, cộng thêm vào đó những hư cấu và sáng tạo các tình tiết truyền kỳ của chính tác giả, ngoài bút Nguyễn Dữ đã để lại cho đời một áng thiên cổ kì bút. bất hủ. Truyện kể về người con gái tên là Vũ Thị Thiết (thường gọi là Vũ Nương) quê ở Nam Xương. Vũ Nương vừa đẹp người lại đẹp nết, có chồng là Trương Sinh – gia cảnh khá giả nhưng có tính ghen tuôn quá mức. Khi chồng đi lính, Vũ Nương ở nhà sinh hạ mọt đứa con trai. Nàng hết lòng nuôi dạy con thơ và phụ dưỡng mẹ chồng.
Chiến tranh kết thúc, Trương sinh trở về quê. Chỉ vì nóng vội tin lời con trẻ, Trương Sinh nghi vợ thất tiết nên đã hết lời la mắng, sỉ nhục và đuổi đi. Uất ức vì không thể phân minh, nàng tìm đến cái chết trầm mình nơi dòng Hoàng Giang. Sau khi nàng chết, Trương Sinh hiểu rõ sự tình. Chàng hối hận vô cùng nhưng đã quá muộn màng. Vũ Nương được Linh Phi cứu sống và cho ở nơi cung nước. tuy vẫn còn quyến luyến trần gian nhưng nàng quyết không trở về nữa. Lần trở về trên bến sông là để minh giải oan khuất và từ biệt mà thôi.
Vẫn là câu chuyện nói về số phận một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, bị oan khuất phải tìm lấy cái chết để minh chứng sự trong sạch của mình. Kết cấu ấy là kết cấu thường thấy trong truyện cổ tích. Nhưng với cái nhìn tiến bộ, Nguyễn Dữ đã thể hiện lòng trân trọng và cảm thương của mình đối với cuộc sống đau khổ và số phận bi thảm của người phụ nữ ở chế độ xưa. Đặc biệt là vũ nương – một người xuất thân từ giới bình dân “vốn con kẻ khó”
Tuy không khắc họa đậm nét cá tính nhân vật như các tác phẩm văn học khác, Nguyễn Dữ cũng đã xây dựng nhân vật Vũ Nương khá toàn vẹn. Trước hết Vũ Nương mang vẻ đẹp của một con người lí tưởng. Ở nàng là sự hài hòa, cân đối về cả ngoại hình lẫn tâm hồn. Nhà văn đã phát thảo vẽ đẹp hoàn hảo đó trong một câu văn: ” Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Vũ Nương hiện lên vói vẻ đẹp diệu dàng, hiền hậu, dễ mến mà không kém tươi tắn, đáng quý đáng tôn trọng. Chưa thể gọi nàng là hồng nhan, tuyệt sắc nhưng có thể nói đó là một người con gái đẹp, khiến lòng người say mê.
Vũ Nương là một người con gái có lễ giáo, sống chừng mực, biết giữ gìn khuôn phép. Ở nàng là chuẩn mực của lối ứng xử đúng với nguyên tắc lễ giáo phong kiến: lịch thiệp, thanh nhã. khi làm vợ trương Sinh, biết tính chồng hay ghen, nàng hết sức giữ gìn khuôn phép, chưa từng để vợ chồng phải đến thất hòa. nàng biết cam chịu nỗi đau, sống vì người khác để giữ gìn đạo lí và hnahj phúc.
Vũ Nương còn là một người vợ thủy chung, một người mẹ đảm đang, một người con dâu hiếu thuận vẹn toàn. Khi Trương Sinh ra trận, nàng tìm lời khuyên nhủ thắm tình, trọn nghĩa. Nàng chỉ mong chồng được bình an nơi trận mạc, khuyên chồng chớ ham danh lợi mà thiệt đến thân. Ở nhà, nàng giữ gìn tiết hạnh, khép kín cuộc sống dợi chồng trở về. Một mình vừa chăm con nhỏ, vừa lo cho mẹ già. Việc gì nàng cũng chu toàn.
Với con nhỏ, biết con lớn lên trong sự thiếu thốn tình cha, nàng luôn tìm cách bù đắp cho bé Đản bằng cách chơi đùa với con. Mỗi đêm vắng lặng, để giỗ con nín, nàng thường chỉ lên cái bóng của mình ở trên tường và bảo rằng đó là cha. Bé Đản ngây thơ tin thật nên không khóc nữa. Cùng một lúc Vũ Nương thay chồng cùng làm mẹ cùng làm cha bé Đản. Qua hành động ấy ta thấy rõ, Vũ Nương vừa che giấu nổi niềm thương nhớ chồng trong lòng vừa làm chỗ dựa vững vàng cho con, cho cả gia đình. Cái bóng ấy nàng gửi vào trong ấy tâm tư yêu nhớ khôn nguôi người chồng nơi chiến trường. Đồng thời xây dựng ước mong, khát vọng và niềm tin về người cha trong trong tâm trí con thơ.
Đối với mẹ già, Vũ Nương đã hoàn thành xuất sắc vai trò cả một người con dâu hiền hậu, hiếu thảo với mẹ chồng. Lúc mẹ chồng ốm nặng, nàng “hết sức thuốc than lễ bái thần phật và lấy lời ngoạt ngào khôn khéo khuyên lơn” để mẹ vơi nỗi nhớ con mà khỏe hơn. Đến khi bà mất, nàng “vô cùng thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với mẹ cha đẻ của mình”.
Tấm lòng thơm thảo của Vũ Nương đã thêm tô đậm vẽ đẹp truyền thống toàn vẹn của nàng: dịu dàng, đầm thấm, giàu yêu thương, hi sinh…. Tấm lòng trung hậu ấy đã khiến cho mẹ chồng cảm động: “sau này trời xét lòng lành , ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ” …
Với tất cả phẩm hạnh cao quý ấy, nhưng tưởng người phụ nữ mẫu mực này rồi cũng sẽ có một cuộc sống tốt đẹp, yên bình. Nhưng nào ngờ, đối với nàng, đó chỉ là một giấc mơ một khác khao dường như vô vọng.
Chiến tranh kết thúc. Trương sinh trở về. Nhưng cái giây phúc đoàn viên cũng chính là giây phúc đau khổ, thương tâm nhất trong cuộc đời nàng. Vì mù quáng tin lời nói ngây thơ của con trẻ, trương Sinh trở nên hồ đồ, ngu muội, trở nên bất nghĩa, vô tâm, đẩy Vũ Nương đến cái chết oan uổng.
Hóa ra cái bóng hôm nào trong trò chơi với con giờ đây trở thành nguyên nhân đẩy nàng đến đường tận tuyệt. Từ cái bóng mờ trên tường trở thành bóng tối trong lòng Trương Sinh. Phía sau cái bóng ấy là định kiến, là lễ giáo phong kiến vốn hà khắc đã chà đạp lên cuộc đời và số phận của người phụ nữ, đẩy họ vào bước đường cùng nghiệt ngã không lối thoát.
Nguyễn Dữ như muốn minh oan và bù đáp cho đức tính tốt đẹp của nàng bằng một cuộc sống khác với chốn dương gian. Nàng được sống trong “cung gấm đền giao thật nguy nga lộng lẫy” cùng với Linh Phi và tiên nữ. Song cuộc sống của nàng vẫn luôn mang ám ảnh, đau khổ, dằn vặt. Tuy nói dứt nợ phàm trần nhưng nỗi lòng vẫn canh cánh quê xưa. Duyên trần đã dứt nhưng oan tình chưa giải dduwwocj đã khiến Vũ Nương nơi cung nước vẫn ngày đêm thổn thức. nhờ có Phan Lang giúp đỡ, nàng được trở về tự minh oan cho mình. Chi tiết ấy thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Dữ. Dù đất trời đã chứng giám nhưng lòng người chưa rõ. Vũ Nương trở về là để lấy lại giá trị của mình và phủi sạch lớp bụi nhơ bẩn của trần gian.
Nhân vật Vũ Nương chính là hiện thân của lòng vị tha và vẽ đẹp của người phụ nữ trong chế độ củ. Nhưng cũng như họ, Nàng không thể quyết định cuộc đời mình. Ngay từ chi tiết Trương Sinh dùng trăm lạng vàng cưới nàng về, chuyện hôn nhân cũng không do nàng định đoạt. Không thể tự quyết mình sống như thế nào nhưng Vũ Nương có thể tự quyết mình chất như làm sao. Đó là lần đầu tiên, người phụ nữ tự mình làm theo ý mình. Sau cái chết, lần thứ hai nàng tự mình quyết định không trở về trần gian nữa.
Chi tiết tưởng chừng như hiển nhiên ấy lại là là một sự bức phá của người phụ nữ trước sự kìm kẹp của lễ giáo phong kiến. Đồng thời đó là tiếng nói căm phẫn của nhà văn đối với xã hội đầy bất công, ngang trái.
Ta cũng chợt nhận ra, chế độ phong kiến đã gây ra nhiều bất hạnh cho không ít phụ nữ. Nếu ta đã từng đau cho nỗi đau của Thúy Kiều, một người con gái sắc tài bạc mệnh thì giờ đây ta làm sao có thể dửng dưng trước những gì Vũ Nương đã trải qua. Nếu ta đã một lần khóc than cho nổi oan khiên của Thị Kính, khóc cho sự chờ đợi mòn mỏi của người thiếu phụ chờ chồng thì đến với Chuyện người con gái Nam Xương làm sao ta có thể xót xa, không ray rức trước oan tình nghiệt ngã của Vũ Nương.
Tác phẩm lời tố cáo mạnh mẽ cái chế độ hà khắc của xã hội phong kiến, chế độ trọng nam khinh nữ, những định kiến cổ hủ, lạc hậu… đã đày đọa những người con gái nhỏ bé vào hoàn cảnh bất hạnh, thương tâm.
Gấp lại trang sách, cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương – người con gái Nam Xương còn đâu đó làm ta động lại những cảm xúc, vấn vương. Cuộc đời và khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến cùng với những vẽ đẹp tâm hồn nhân phẩm đáng quý của họ đều được ngòi bút tài tình của Nguyễn Dữ thể hiện thành công đến nhói lòng. Đó cũng là một lời tố cáo quyết liệt, một lời tố cáo giá trị vô cùng lớn lao trong xã hội lúc bấy giờ.
0
0
(•‿•)
03/06/2019 12:32:56
Càng tìm hiểu câu chuyện, ta càng có cảm giác hứng thú bởi sự sâu sắc của Nguyễn Dữ khi từ cái chết của Vũ Nương đã đưa ra một bức thông điệp nhằm cảnh tỉnh trong bi kịch hôn nhân.
Câu chuyện cổ tích sinh hoạt Vợ chàng Trương phát triển thành truyện ngắn Chuyện người con gái Nam Xương là một sáng tạo của Nguyễn Dữ trên nhiều hình thức. Cả hai đều xoay quanh bi kịch Vũ Nương, nhưng ở Người con gái Nam Xương ta nhận thấy chiều sâu ở đối tượng phản ánh. Nếu Vợ chàng Trương chỉ nêu hiện tượng bi kịch thì Người con gái Nam Xương lại thêm những tình tiết, yếu tố bổ sung vừa giải thích, chứng minh và khẳng định bản chất hiện tượng để người đọc chiêm nghiệm.
Từ một câu chuyện cổ tích có nhan đề Vợ chàng Trương, đối tượng phản ánh ở một phạm vi hẹp mang tính cá thể trong một gia đình, nhưng ở truyện ngắn của mình, qua nhan đề, phải chăng Nguyễn Dữ đã mở rộng phạm vi và đối tượng, đó là chuyện của người con gái Nam Xương? Phải chăng từ một vấn đề của một con người cụ thể đã trở thành chuyện để người đời soi chiếu? Phải chăng không còn là câu chuyện của người phụ nữ trong trong gia đình nữa mà là sự cảnh tỉnh với những người con gái cận kề hôn nhân cần có ý thức và thái độ sống phù hợp khi đang trói buộc trong chế độ phong kiến nam quyền?
Bi kịch Vũ Nương bao đời nay đã trở thành nỗi ám ảnh trong nhận thức của nhiều người. Nhưng nhìn nhận một cách hiện thực nhất, điều trước tiên cần nói là bản thân nàng không hiểu thân phận, không đặt mình trong bối cảnh xã hội đang sống, đó là mỗi cảnh đời phụ nữ gánh chịu một bi kịch của cuộc đời. Trong văn học dân gian cũng như văn học viết trung đại đều đề cập số phận đắng cay của người phụ nữ trên mọi khía cạnh. Từ cung vua phủ chúa đến người nông dân lam lũ, họ đều gánh chịu bi kịch của thân phận, bi kịch của hôn nhân, bi kịch về sự lộng hành gia trưởng nam quyền...Nhà thơ Nguyễn Du, trong kiệt tác Truyện Kiều đã viết nên những câu thơ đầy tính khái quát về số phận đớn đau của người phụ nữ phong kiến:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!
Hầu như người phụ nữ phong kiến đã chấp nhận số phận nghiệt ngã bằng tất cả sự nhẫn nhục, cam chịu và hi sinh. Còn Vũ Nương, trong ý thức sống dựa dẫm, khi đối mặt trước thử thách, nàng đã chạy trốn, muốn thoát li khỏi bể khổ để bảo vệ cho cá nhân của nàng mà không hay nghĩ đến người khác.
Suy cho cùng, thái độ sống dựa dẫm cùng sự ích kỉ đã làm nên bi kịch của chính cuộc đời nàng. Nếu nàng không vịn vào cái bóng để bù lấp chỗ trống khi chồng đi xa thì liệu có sự hiểu lầm của Trương Sinh hay không? Rồi khi đã sinh ra mâu thuẫn, tại sao nàng không nhẫn nhịn để kiềm chế, trái lại còn giằng co tìm câu trả lời nhanh nhất trong căng thẳng của xung đột và kết cục tìm đến cái chết? Trong trường hợp của nàng, nếu một người phụ nữ khác biết sống cam chịu, hi sinh và nhẫn nhục thì vẫn có thể hạn chế được bi kịch. Hay có thể khi tận cùng của bế tắc vẫn không tìm lối thoát bằng tự vẫn mà tìm hình thức khác như Thị Kính chẳng hạn! Người phụ nữ trong xã hội phong kiến nam quyền, hơn ai hết phải ý thức về thân phận, đồng thời truyền dạy cho thế hệ sau những kinh nghiệm, vốn sống để hạn chế bi kịch chủ quan và khéo léo ứng xử trước bi kịch khách quan. Vậy chẳng phải bi kịch Vũ Nương chính là sự cảnh tỉnh trong bi kịch hôn nhân hay sao?
Xung quanh bi kịch Vũ Nương đã được người đời luận bàn rất nhiều. Yếu tố khách quan đầu tiên để người đời coi như cái cớ để vin vào là do chiến tranh đã tạo nên khoảng trống không gian và thời gian làm nên sự hiểu lầm, nguyên nhân gián tiếp dẫn đến cái chết của nàng. Lịch sử xã hội phong kiến, chiến tranh liên miên chống ngoại xâm hay trong nội lòng của nó, đâu chỉ mình Trương Sinh đi trận, đâu chỉ mình Vũ Nương sống cảnh gối chiếc chăn đơn! Cái bóng xen vào trong li tán là ngọn nguồn sự hiểu lầm dẫn đến ghen tuông, nhưng nó không có tội khi Vũ Nương đã tự mượn nó để đánh lừa con, đánh lừa hạnh phúc chính bản thân mình. Mỗi người có một cái bóng của chính mình nhưng ngoài nàng ra thử hỏi có ai nương vào cái bóng để đánh lừa cảm giác theo cách ấy? Nếu ai cũng như nàng, khi chồng đi lính, vin vào cái bóng rồi xử sự kiểu nàng thì thất thoát về số lượng con người còn lớn hơn so với cuộc chiến! Nàng dùng chiếc bóng để khỏa lấp khoảng trống thời gian, không gian thực bằng ảo ảnh phi thực cũng có nghĩa nàng không dám đón nhận thực tế cuộc sống đời thường ở mặt thực tiễn của nó. Khi chuyện xảy ra, nàng xử lí theo cách của phận nương nhờ, của cuộc sống ảo, không bằng ý thức giải quyết mâu thuẫn trong thực tế nhằm duy trì cuộc sống. Vì thế, nàng đã sụp đổ, tuyệt vọng ngay khi cái thực cuộc sống chớm đến. Mà cái thực cuộc sống thì luôn luôn xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi chứ đâu chỉ trong xa cách chiến tranh. Cuộc sống đời thường, dù vợ chồng kề cạnh thì những hiểu lầm, những mâu thuẫn xung đột bất ngờ vẫn luôn xảy ra do yếu tố khách quan và cả chủ quan, chứ đâu phải xa nhau mới sinh ra, như Ô Ten Lô, một nhân vật trong vở kịch nổi tiếng của Sêchx- Pia chẳng hạn. Như vậy, với trường hợp Vũ Nương, ta có thể loại trừ cái chết của nàng là do chiến tranh.
Vậy có phải Trương Sinh đã đẩy nàng đến cảnh tuyệt tận hay không?
Trương Sinh đã có hành vi thô bạo đối với Vũ Nương khi không tìm hiểu, suy xét và thiếu niềm tin vào nàng. Điều đó thật đáng trách nhưng cũng có thể cảm thông bởi nó xuất phát từ căn nguyên rất thật của con người, đặc biệt với đàn ông, đó là ghen. Mà cơn ghen của chàng cũng thật có lí. Từ lời con trẻ: có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Xa nhà hai năm, nếu trong hoàn cảnh này, làm chồng không ghen mới là điều bất thường. Về nhân vật Trương Sinh, ta nên nhìn chàng với cái nhìn phóng khoáng hơn, bởi chàng đã sinh ra, tồn tại, hành xử trong cái thật nhất của con người đó là có sai, có đúng, có ân hận, có khao khát, có trước, có sau. Cơn ghen bắt đầu la um cho hả giận, sau đó đến mắng nhiếc rồi đuổi đi. Nếu nàng nhẫn nhịn, khéo léo xử sự để tháo gỡ trước những khúc mắc của cuộc đời thì chắc sẽ không dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Mà Vũ Nương cũng thật cạn nghĩ, ngoài cơn ghen do hiểu lầm đem lại tổn thương cho nàng trong thời điểm hiện tại, nàng đã có những lợi thế khác mà trong xã hội của nàng mấy ai có được. Đó là Trương Sinh xuất thân con nhà hào phú, giàu sang và có thế lực. Mẫu thân chàng là người hiểu biết trong việc đánh giá mặt ưu điểm của Vũ Nương. Đặc biệt bà đã xóa nhòa quan niệm môn đăng hộ đối, biết tạo sự gần gũi mẹ chồng nàng dâu là điều hiếm thấy trong xã hội phong kiến bấy giờ. Còn bản thân Trương Sinh đã chọn lựa Vũ Nương bởi mến vì dung hạnh, chàng đã biết đặt cái đẹp hình thức bên cạnh cái đẹp đức hạnh, cũng đủ thấy chàng không hề dại dột. Như thế, dù không học thì chàng vẫn thuộc con nhà dòng giống ở mặt ưu thế nhất. Nếu Vũ Nương biết xử sự đúng mực, biết nhẫn nhục, hi sinh, chờ đợi cơn bão tố qua đi thì nàng quả là người may mắn. Những biến cố xung đột do ghen tuông như thế hẳn không thiếu trong mỗi gia đình. Dù không có lợi thế như nàng, nhưng để bảo tồn cuộc sống, ít ai xử sự theo kiểu của nàng.
Nói đến hành động vũ phu của Trương Sinh, vậy tại sao thường ngày nàng vẫn khéo léo, dịu dàng trong ăn nói, nhưng lúc xảy ra chuyện, nàng không vận dụng vào thực tế để kiềm tỏa chồng? Mà Trương Sinh, chàng cũng có nhiều ưu điểm như ân hận tìm vớt thây nàng dù đang trong giận dữ chưa hiểu trắng đen, ôm nỗi đau khi biết nàng oan trái, khao khát chờ đợi nàng...Như thế đâu phải Trương Sinh vô cảm đến mức không thể thuyết phục. Sự hiểu lầm dẫn đến bi kịch bắt đầu từ cái bóng, mà cái bóng chẳng phải là yếu tố chủ quan do nàng tạo nên hay sao? Rồi nàng vội vã đến với cái chết trong lúc vẫn có lối thoát khác. Nếu một phụ nữ khác đặt trong hoàn cảnh nàng sẽ không có kết thúc bi thảm. Như thế, cái chết này có liên quan đến Trương Sinh chứ không phải Trương Sinh tước đoạt cuộc sống của nàng. Loại trừ yếu tố khách quanh, cái chết của Vũ Nương hoàn toàn thuộc về chủ quan của chính bản thân nàng. Từ cái chết này giúp ta nhận thức hơn về cuộc sống. Cha ông đã nhìn nhận người phụ nữ ở góc độ đầy cảm thông, thấu hiểu:
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Trong chế độ nam quyền, người phụ nữ vốn đã rất đau khổ khi phải sống lệ thuộc hoàn cảnh. Nhưng còn khổ đau hơn nữa trong sự hiểu lầm ghen tuông vì đối với ghen tuông, người khôn hay người phàm đôi khi không có ranh giới. Làm người phụ nữ, người vợ, trong căng thẳng xung đột biết biến chữ nhẫn thành chữ đức như một sự hi sinh.
Tất cả bi kịch của cuộc sống, bi kịch ghen tuông vẫn dễ cảm thông nhất. Dù ở hình thức này hay hình thức khác thì ghen tuông là mặt hạn chế của con người trong mọi thời đại, như một câu chuyện muôn thuở, mãi mãi không có đáp án, dù bạn là người thông minh nhất!

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo