Viết về đề tài tình cảm trong chiến tranh vốn là đề tài đước các văn nghệ sĩ hết sức quan tâm. Đóng góp vào kho tàng ấy, nhà thơ Chính Hữu với bài thơ Đồng chí đã tái hiện lại hình ảnh người lính chống Pháp một cách chân thực, giàu tính lãng mạng. “Đồng chí” là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người với người trong cách mạng và kháng chiến. Đó là tình cảm gắn bó, sẻ chia được gưỉ vào hai tiếng “đống chí” thân thương.
Cơ sở hình thành tình đồng chí
- Cảnh ngộ của những người lính:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
– Hai câu thơ sóng đôi nhau như những người bạn bên nhau. Giọng thơ tâm tình, thủ thỉ, tâm tình, thân thiết. Hai cụm từ, hai thành ngữ: “nước mặn đồng chua, đất cày sỏi đá”quen thuộc, gần gũi. Câu thơ mô tả cuộc sống nghèo khó của những người lính. Họ là những người nông dân mặc áo lính, quen thuộc việc cày cấy hơn là cầm súng ra chiến trận. Đất nước có loạn, họ buông tay cuốc tay cày để cầm súng lên đường tiêu diệt kẻ thù chung.
Cùng thời, nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “Nhớ” cũng viết về những người nông dân mặc áo lính rất cảm động:
“Lũ chúng tôi”
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến”.
- Tâm sự của những người lính:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
– Hai từ “anh”, “tôi” vừa đứng ở hai dòng thơ, sang đến dòng thơ thứ ba đã hội nhập lại làm một: “Anh với tôi”, trên cùng một dòng thơ. Đó là sự gặp gỡ, là sự đồng tình, đồng cảm…
– Từ “đôi” mà Chính Hữu sử dụng vừa là vần vừa là điệu, vừa thể hiện sự gắn chặt bên nhau giữa hai người lính, không thể tách rời.
– Từ “xa lạ” đến “thân quen” là một sự hội ngộ bất ngờ. Sự hội ngộ ấy chings là sự gặp gỡ của những người lính có những điểm chung…
- Những điểm chung của những người lính:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”.
– Họ chung nhau một cuộc chiến đấu: Cùng cầm súng bảo vệ tổ quốc. Họ là người lính vệ quốc. Họ có chung một lý tưởng, một niềm tin: đánh tan giặc Pháp xâm lược, đuổi chúng về Tây, xây dựng lại cuộc đời ấm êm, thanh bình của những người nông dân Việt Nam bên ruộng đồng với con trâu, nhánh lúa, củ khoai… Hai từ mang nghĩa chuyển với phương thức ẩn dụ: “súng, đầu” được luyến láy, lặp lại, càng khẳng định ước mơ, lý tưởng ấy của họ. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”, hai vế câu sóng đôi với nhau như muốn hình tượng hóa những người lính bên nhau có nhau trong cuộc chiến đấu thần kì, chống kẻ thù chung.
– Họ chung nhau một cuộc chiến đấu gian khổ, thiếu thốn “đêm rét chung chăn…” Cái khó khăn của thời kì đầu kháng chiến chống Pháp mà họ cần phải vượt qua, phải khắc phục và chiến thắng nó. Và cũng từ trong gian khổ, khó khăn, ở họ lại hình thành một tình cảm mới: sự thấu hiểu, chia sẻ, tinh thần đồng cam cộng khổ, họ gọi nhau, xem nhau là“tri kỷ”.
Hai câu thơ vừa như một lời tự sự, như một lời chia sẻ, đồng cảm thân thiết giữa những người lính bộ đội cụ Hồ.
- Câu thơ đặc biệt: “Đồng chí!”
– Hai tiếng thơ thân thương biết mấy của quá trình hình thành tình cảm đặc biệt của những người lính: xa lạ → quen nhau → tri kỷ → đồng chí!
– Câu thơ chỉ có một từ. Một từ lắng đọng. Một từ thiêng liêng, cao cả. Bởi nó khẳng định sự gắn bó bền chặt của những người lính bên nhau, có nhau, không thể cắt rời.
– Hai tiếng thơ thật tha thiết, cứ thấm dần, thấm dần vào lồng xương, ống máu; ở tận tâm can của họ, động viên họ vượt qua gian khổ, khó khăn; sống chết có nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi…
– Câu thơ như một nốt nhấn trong bản tình ca sâu lắng, là câu thơ chốt của toàn đoạn thơ gồm bảy câu với ý tưởng: Như thế là đồng chí!