LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Đời thừa – một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao - Đời thừa (Nam Cao)

2 trả lời
Hỏi chi tiết
763
0
0
Nguyễn Thị Nhài
07/04/2018 14:13:46

Đề bài: Có ý kiến cho rằng truyện ngắn "Đời thừa" là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao. Anh (chị) hãy giải thích và chứng minh ý kiến trên.

Bài làm

   Từ khi viết những tác phẩm đầu tiên (1936) cho đến khi ngã xuống trên đường đi công tác (1951) Nam Cao cầm bút vỏn vẹn có 15 năm. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, ông đã làm nên sự nghiệp của một đời văn. Người ta xem ông là nhà văn hiện thực xuất sắc, là nhà văn hàng đầu Việt Nam thế kỉ XX.

   Nhiều tác phẩm của ông cho đến nay vẫn tràn đầy sức sống. Nhiều nhân vật của ông vẫn sống giữa cuộc đời hôm nay. Tạo được những trang viết như thế chứng tỏ bút lực của Nam Cao có sức sống mãnh liệt. Đó là bút lực của một nhà văn có quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn.

   Nam Cao không viết thành hệ thống quản lí luận tư tưởng nghệ thuật của mình. Nhưng tư tưởng ấy được bộc lộ khá rõ nét trong nhiều tác phẩm của ông đặc biệt như trong truyện ngắn "Đời thừa". Chính vì thế, nhiều người xem "Đời thừa" là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao.

   Đọc "Đời thừa" của Nam Gao người đọc có thể tìm thấy nhiều quan niệm nghệ thuật sâu sắc ẩn chứa trong đó.

   Trước hết là quan niệm của ông về nghệ thuật cuộc đời. Ông cho rằng nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời.

   Trước đây, trong truyện ngắn "Trăng sáng" ông đã phê phán thứ nghệ thuật thoát ly cuộc đời. Theo ông nghệ thuật mà không thoát ra từ những kiếp lầm than, đau khổ thì chỉ là thứ "ánh trăng lừa dối". Ông cho rằng nghệ thuật phải miêu tả chân thật cuộc đời.

   Ở "Đời thừa", ông lại phê phán thứ văn chỉ mới miêu tả được cái bề ngoài của xã hội. Ông để cho nhân vật Hộ trong truyện ngắn này đánh giá cuốn "Đường về" của nhân vật Quyên chỉ là một cuốn sách xoàng "xoàng lắm", chỉ có giá trị địa phương thôi, vì nó mới chỉ miêu tả được cái bề ngoài của xã hội.

   Như vậy, ở "Trăng sáng", ông phê phán văn chương thoát ly, thì ở "Đời thừa" ông lại phê phán thứ văn chương tả chân hời hợt. Trước sau ông đều khẳng định văn chương phải gắn bó với cuộc đời, phản ánh được chiều sâu của cuộc đời.

   Từ đó ông cho rằng một tác phẩm có giá trị phải là một tác phẩm thể hiện được những "rung động của đời". Hơn thế nữa một tác phẩm thật sự có giá trị là tác phẩm "vượt lên trên tất cả mọi bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi... Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn".

   Giá trị của văn chương chính là ý nghĩa của nó đối với cuộc đời. Văn chương chỉ có giá trị khi nó vượt lên mọi bờ cõi và giới hạn, khi nó là của chung của loài người. Nó phải có giá trị nhân loại.

   Hơn thế nữa văn chương có giá trị khi tác động mạnh mẽ đối với con người và cuộc đời: chứa đựng cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa phấn khởi. Nó làm cho người gần người hơn.

   Giá trị của văn chương còn là ý nghĩa nhân dân mà nó mang đến cho đời khi nó ca tụng lòng thương, tình bác ác và sự công bình.

   Những lời lẽ tưởng như là bốc đồng của nhân vật Hộ giữa đám bạn bè hóa ra lại là những tuyên ngôn nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ của Nam Cao. Gần như ông đã nói đến những điều cơ bản nhất, chủ yếu nhất cái làm nên giá trị đích thực của văn chương. Quan niệm ấy của ông rất gần gũi với quan niệm chúng ta ngày nay.

   Nhưng Nam Cao không chỉ tuyên ngôn về ý nghĩa của văn chương đối với cuộc đời, mà ông còn đề cập khá sâu sắc đến nghề văn và sáng tạo trong văn chương.

   Ông cho rằng nghề văn là một nghề cao quý. Nghề văn đòi hỏi nhà văn phải lương tâm và trách nhiệm. Nam Cao cho rằng sự cẩu thả trong bất cứ nghề cũng là một sự bất lương, nhưng cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Nhân vật đã phải đau đớn, xót xa, day dứt như thế nào khi phải cho in g cuốn văn viết vội, khi phải viết những "bài báo để người ta đọc rồi quê ngay". Anh mắng mình, xỉ vả mình như xỉ vả một kể khốn nạn.

   Mặt khác Nam Cao cũng cho rằng nghề văn cũng là một nghề sáng tạo. Ông viết: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo ra những gì chưa có".

   Theo Nam Cao, Văn chương không phải là nghề của những người thợ khéo tay làm theo những khuôn mẫu có sẵn. Bởi vì dù "khéo tay" đến đâu mà làm theo những "khuôn mẫu có sẵn" thì còn đâu là sáng tạo nữa, mà chỉ tạo nên những trang viết nhợt nhạt, thiếu sức sống mà thôi.

   Nhận thức này của Nam Cao có lẽ phần nào có sự chiêm nghiệm của chính ông về những năm tháng cầm bút đầu tiên trong cuộc đời. Lúc này, Nam Cao viết nhiều bài thơ, truyện ngắn theo cách thức khuôn mẫu của văn chương đương thời, nhưng rồi ông đã nhận ra những tác phẩm ấy thiếu hơi thở của cuộc đời nhợt nhạt thiếu sức sống vì chưa thoát khỏi sự khéo tay, chưa vượt qua những "khuôn mẫu có sẵn". Ông chuyển sang khuynh hướng hiện thực. Và từ đây những trang viết của ông mang cái ấm nóng hơi thở cuộc đời. Ông nhận ra rằng văn chương không thể rập khuôn, càng không thể là "thấy người ta ăn khoai mình cũng vác mai đi đào".

   Từ nhận thức đó ông khẳng định, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, biết sáng tạo. Nhà văn phải là người khám phá những nét bản chất của đời sống ở cái bề sâu của nó, chứ không phải chỉ nhìn cái hời hợt bề ngoài.

   Đó không chỉ là quan niệm mà đã trở thành nỗi trăn trở trong suốt cuộc đời cầm bút của ông. Hình như ở trang viết nào của ông cũng lấp lánh sự sáng tạo.

   Cũng như nhiều nhà văn cùng thời, ngòi bót Nam Cạo thường hướng về số phận những con người cùng khổ. Cũng như nhiều nhà văn khác, ông nhận la bao nhiêu xót xa, đắng cay đối với sộ phận con người. Nhưng có lẽ ít ai nhìn thấy nỗi đau tinh thần của con người thấm thía như ông. Ông nhận ra cả nỗi đau không được làm người trên gương mặt một con quỉ dữ như Chí Phèo, ông nhận ra trong giọt nước mắt khóc cho một con chó của lão Hạc có bao nhiêu day dứt. Ông nhìn một bữa. Những nỗi đau ấy đã đọng lại thành những dòng nước mắt trên những trang viết của ông.

   Hay ở nghệ thuật viết truyện của ông, chúng ta cũng thấy bao nhiêu là sáng tạo. Ông ít chọn cho mình những câu chuyện có cốt truyện như thường gặp, mà đi chọn những chuyện không có cốt truyện để rồi qua đó đưa ra những độc thoại nội tâm, những phân tích tâm lí đặc sắc, tạo nên nét riêng trong cách viết. Có thể nói ở đây ta cũng có thể gặp những sáng tạo như vậy trong những trang viết của Nam Cao.

   Từ đây có thể nói rằng "Đời thừa" không chỉ là truyện ngắn mà còn là tuyên ngôn nghệ thuật. Tuyên ngôn nghệ thuật của một nhà văn đã xem văn chương là cuộc đời, xem nghề văn là nghề cao quý của con người có thiên lương và trách nhiệm.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Bạch Tuyết
07/04/2018 11:24:48

Đề bài: Đời thừa – một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.

Bài làm

   Trong cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao luôn suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống và viết. Điều này thể hiện rõ nét trong tác phẩm của ông suốt từ trước đến sau Cách mạng, trở thành hệ thống quan điểm sáng tác của ông. Nhiều tác phẩm của ông được coi là tuyên ngôn nghệ thuật với những quan điểm tiến bộ và sâu sắc. Trong đó, Đời thừa là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.

   Nói đến tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng, người ta thường nghĩ đến Trăng sáng. Song quan điểm nghệ thuật được Nam Cao phát biểu thành hệ thống và có chiều sâu tư tưởng thì phải nói đến Đời thừa chứ không phải Trăng sáng.

   Nếu như trong Trăng sáng, nhà văn phê phán nghệ thuật lãng mạn thoát li trốn tránh trách nhiệm, trốn tránh cuộc đời, ông coi đó là ánh trăng lừa dối, thì đến Đời thừa ông còn phê phán cả lối tả chân hời hợt, chỉ tả được cái bề ngoài xã hội. Với quan điểm nghệ thuật chân chính phải trở về với cuộc đời thực. Hộ (người phát ngôn của Nam Cao) đã có những nhận xét đích đáng về cuốn Đường về. Cuốn "Đường về" chỉ có giá trị địa phương thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ tả được cá bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Như vậy, Nam Cao không chỉ đối lập văn chương giả dối với văn chương chân thực mà còn phân biệt cái chân thực bề ngoài với chân thực có chiều sâu trong nghệ thuật. Điều này thể hiện tư tưởng mới mẻ và sâu sắc của ông.

   Không tán thành loại sáng tác chỉ tả được cái bể ngoài của xã hội, Nam Cao cho rằng một tác phẩm thật giá trị thì phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... nó làm cho người gần người hơn. Đây chính là điều cốt lõi làm nên giá trị đích thực của một nền văn học lớn. Trong lúc xã hội thuộc địa nửa phong kiến đầy hỗn loạn, văn chương thật - giả lẫn lộn, nhà văn bị cơm áo ghì sát đất, vậy mà vẫn có một Nam Cao trong sáng vô ngần, trung thực vô ngần (Tô Hoài) và đầy tâm huyết với nghiệp văn, thật đáng quý biết bao. Nhiệt tình, tâm huyết và trách nhiệm của người cầm bút đã khiến ông có những suy nghĩ nghiêm túc đầy tiến bộ về nghệ thuật đích thực. Văn chương của ông hướng tới lòng yêu thương con người, tình bác ái, sự công bằng. Nó là mục đích cao cả là giúp cho người gần người hơn. Thì ra sứ mệnh mà cuộc sống giao cho nhà văn, giao cho tác phẩm của ông thật lớn lao. Nhà văn phải làm cho con người gần gũi nhau hơn, yêu thương nhau hơn. Đó cũng chính là ý nghĩa văn học là nhân học vĩ đại trong tư tưởng Nam Cao.

   Và sự thực Nam Cao cũng đà làm được điều mình nói. Trong tác phẩm của mình, không ít lần ông vẽ nên những cảnh tượng xót thương, đau lòng rồi thổi lên trong lòng người đọc sự xót xa, nuối tiếc, sự yêu thương, căm giận, cảm thông. Ta xót thương cho cái chết của Lão Hạc bao nhiêu thì ngậm ngùi cho đám cưới của Dần bấy nhiêu, đau đớn, day dứt khôn nguôi cho cái chết của Chí Phèo trên con đường trở lại hoàn lương bao nhiêu thì căm ghét xã hội thuộc địa phong kiến vô nhân đạo bấy nhiêu và cảm thông vô cùng với những trí thức như Điền ( Trăng sáng), Hộ (Đời thừa) những con người có ước mơ hoài bão lớn nhưng lại bị áo cơm ghì sát dất.. Điều này chỉ có được khi trong thẳm sâu trái tim của người viết có tình yêu thương trân trọng con người vô hạn. Nỗi niềm day dứt về con người, tình yêu thương ấy qua quá trình thai nghén đã trào dâng lên ngọn bút để viết nên những tác phẩm bất hủ của lòng nhân đạo.

   Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao dã phát biểu rất hay về yêu cầu tìm tòi sáng tạo của nghề văn và lương tâm của người cầm bút: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.

   Trước hết, Nam Cao lên tiếng phủ nhận những nhà ván được gọi là những người thợ khéo tay - những người chỉ biết bắt chước người khác. Đó là những nhà văn chỉ chuyên chú gọt đẽo ngôn từ tạo nên thứ văn chương đơn giản là văn chương rập khuôn. Thực chất đó chỉ là thứ văn chương nông cạn, hời hợt, lặp lại, sáo mòn theo một khuôn mẫu đã có trước đó. Bản chất đích thực của văn chương là sự sáng tạo: Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi, khơi nhưng nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. Văn chương không cho phép bất cứ sự lặp lại nào. Nghệ thuật là một quá trình chọn lọc khắc nghiệt. Vì vậy, muốn tác phẩm của mình không bị đào thải thì nhà văn phải có quá trình tìm tòi, sáng tạo. Con đường lao động nghệ thuật của các nhà văn là con đường lao động chân chính, lao động thực thụ.

   Khi Nam Cao đòi hỏi mỗi nhà văn phải khơi những nguồn chưa ai khơi là ông muốn nhà văn phải tìm đến những gì chưa ai phát hiện ra. Cuộc đời dường như là một dòng sông lớn. Nơi ấy đã có những mạch nguồn hiện hữu, nhưng nơi ấy vẫn hãy còn rất nhiều những mạch nguồn tiềm ẩn mà nhiệm vụ của nhà văn là phải khám phá những mạch nguồn này. Đó quả là một nhiệm vụ không dễ đàng gì đòi hỏi ờ nhà văn tài năng và một tinh thần lao động thực sự — một sự cống hiến và tàm huyết nghề nghiệp.

   Tim tòi ra những chân lí nghệ thuật này hẳn Nam Cao cũng đã trải qua quá trình suy nghĩ, trăn trở của một nhà nghệ thuật tâm huyết. Tư tưởng ấy trở thành chân lí nghệ thuật nói chung và chân lí trong văn chương nói riêng cho mọi thời đại ở mọi nền văn học.

   Cuộc đời lao động của Nam Cao là tấm gương sáng cho những nỗ lực tìm tòi, khám phá giàu giá trị sống mãi cung thời gian: Chí Phèo, Đời thường... Trong hiện thực mới mẻ nhất mà Nam Cao khám phá đó là sự tha hóa về nhân phẩm: Hình ảnh người lao động bị xã hội phong kiến thực dân hủy hoại cả nhân hình, nhân tính (Chí Phèo), ngươi trí thức có hoài bão lớn, có ý thức về lẽ sống tình thương nhưng lại vi phạm vâo chính những lẽ sống tình thương đó và cẩu thả, đê tiện trong nghề nghiệp (Hộ - Đời thừa)… Đây là điểm mới mà các nhà văn hiện thực trước đó mới chỉ ra được sự bần cùng, quá trình đói cơm rách áo của người nông dân, người trí thức mà thôi. Đồng thời, một điển hình mới mẻ, tiến bộ nữa trong sáng tác của Nam Cao là thấy được quá trình thức tỉnh lương tâm làm người của Chí Phèo, quá trình thức tỉnh nhận ra mình là một người thừa, một kẻ khốn nạn ở Hộ... Ngoài ra, nếu như trước đây, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố đem đến cho chúng ta những nhân vật thiên về hành động, những cuộc đấu tranh diễn ra hàng ngày trên bề mặt cuộc sống thì Nam Cao lại chủ động đi vào nội tâm nhân vật với rất nhiều vui buồn, đau đớn, xót xa, ân hận. Cả người nông dân và người trí thức của Nam Cao đều rất giàu nội tâm...

   Như vậy Nam Cao không những có quan điểm chân chính, ông còn thực hiện những quan điểm ấy một cách xuất sắc. Điều đó làm nên sự vĩ đại của nhà văn Nam Cao - một nghệ sĩ lớn - một trái tim lớn. Và cũng cần khẳng định rằng hơn bất cứ ở đâu, truyện ngắn Đời thừa cho thấy đầy đủ nhất những quan điểm nghệ thuật sâu sắc, tiến bộ của Nam Cao.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư