Những năm hai mươi của thế kỉ XX là thời kì các nước đế quốc thi nhau bành trướng, xâm lược, vơ vét của cải tài nguyên nhân lực của các thuộc địa. Cuộc sống của nhân dân nô lệ ở những nơi này vô cùng tủi nhục và cực khổ. Trong tình hình đó, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) đã nổ ra. Đó chính là cuộc xâu xé giữa các nước đế quốc đang giành giật ảnh hưởng quyền lợi. Cuộc xung đột ác liệt đó đẩy nhân dân lao động ở nhiều nước tư bản, người dân lao động nghèo khổ ở các xứ thuộc địa vào lò lửa chiến tranh thảm khốc.
Đây chính là thời kì hoạt động sôi nổi của người thanh niên yêu nước, người chiến sĩ cộng sản kiên cường Nguyễn Ái Quốc. Trong thời kì này, Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm chính luận được Người viết bằng tiếng Pháp. Để hoàn thành tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã đọc rất nhiều tài liệu, tiếp xúc trao đổi với rất nhiều nhân chứng thể hiện qua tác phẩm rất nhiều con số cụ thể.
Bản án chế độ thực dân Pháp có nội dung phong phú gồm 12 chương và phần phụ lục. Mười hai chương vừa nói, nửa chương viết về một chủ đề. Cả tác phẩm là một bản cáo trạng phong phú, đanh thép về các tội ác tày trời của thực dân về cuộc sống khốn cùng của người dân các xứ thuộc địa. Qua tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện lòng căm thù sâu sắc, mãnh liệt đối với những thế lực thống trị tàn bạo, tình yêu thương sâu xa, thắm thiết đốì với những kiếp người nô lệ bần khổ. Bản án chế độ thực dân Pháp còn chứng tỏ ý chí chiến đấu giành độc lập tự do cho các dân tộc thuộc địa của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm này cũng thể hiện một nghệ thuật trào phúng đả kích sắc sảo đa dạng của Người.
Thuế máu là chương mở đầu. Qua đây, tác giả đã vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa, các thủ đoạn tàn bạo của thực dân Pháp trong việc sử dụng người thuộc địa làm vật hi sinh cho quyền lợi của mình trong các cuộc chiến tranh thảm khóc đã nói. Thuế máu lên án một trong những tội ác ghê tởm nhất của thực dân đế quốc là lợi dụng xương máu của những con người nô lệ, bần khổ.
Trước hết chúng ta thấy nghệ thuật trào phúng của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện ở cách đặt tên chương và trình tự bố cục các phần trong chương.
Thuế máu là cách gọi của Nguyễn Ái Quốc. Tên chương vừa gợi lên số phận thảm thương của người dân thuộc địa, vừa bao hàm được lòng căm phẫn và thái độ mỉa mai đối với những tội ác ghê tởm của bọn thực dân. Trong thực tế không có thuế nào gọi là “thuế máu”. Thuế máu là cách đặt tên của tác giả nhằm phản ánh một thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn của chế độ thực dân, ở các nước thuộc địa: biến người dân nơi đây thành vật hi sinh trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Các phần trong chương được bố cục theo một trình tự thời gian: Trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Với cách bố cục này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, bản chất tàn bạo của chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột thuế máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân ở các xứ thuộc địa cũng được miêu tả một cách cụ thể, sinh động.
Đi sâu vào nội dung của từng phần, ngòi bút châm biếm đả kích của Nguyễn Ái Quốc càng sắc sảo, tài tình. Điều đó được thể hiện qua các phương diện: Hình ảnh sinh động, giàu sức biểu đạt vừa xác thực, vừa có tính châm biếm, mỉa mai; hệ thống từ ngữ mỉa mai, giễu cợt, châm biếm được sử dụng với mật độ dày đặc; giọng điệu trào phúng đặc sắc.
Đầu tiên, về mặt hình ảnh. Các hình ảnh Nguyễn Ái Quốc đưa ra đều hết sức chân thực. Từ hình ảnh những người da đen bẩn thỉu, những người An-nam-mít bẩn thỉu chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn cửa những quan cai trị, đến những hình ảnh về cái chết thảm thương của những người lính thuộc địa trên các bãi chiến trường châu Âu xa xôi. Từ hình ảnh những người bị bắt lính, bị trói, bị xích, bị nhốt như nhốt súc vật đến hình ảnh những người lính sống sót sau chiến tranh trở về bị lột hết của cải, bị ngược đãi và xua đuổi… Tất cả đều là những thực tế đau thương đầy máu và nước mắt của người dân thuộc địa khốn khổ! Vì thế mà hình ảnh Nguyễn ái Quốc đưa ra không chỉ là những chứng cứ hùng hồn về tội ác của bọn thực dân mà còn là những lí lẽ không thể chối cãi. Sức mạnh của nghệ thuật chính luận Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ đó.
Không chỉ có tính xác thực cao, các hình ảnh trong tác phẩm còn đậm chất châm biếm trào phúng và thấm đẫm tình cảm xót xa của nhà văn. Nhiều hình ảnh ở chương Thuế máu, nhất là ở phần Chiến tranh và người bản xứ mang đậm cảm hứng mỉa mai, chua xót, cay đắng cho số phận thảm thương của người lính thuộc địa như: Trong lúc vượt biển, sau khi được mời chứng kiến cảnh kỳ diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái hoặc: Một số khác đã bỏ xác tại các miền hoang vu thơ mộng Ban-căng… Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát, hay hình ảnh người lính lấy máu mình tưới cho vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy, lấy xương mình chạm nên chiếc gậy của các ngài thống chế. Tất cả những hình ảnh đó đều có sự đối lập, đối lập giữa số phận thảm thương của người bản xứ với những vinh quang, hào nhoáng mà bọn thực dân có được sau khi bóc lột đến tận xương tủy thuế máu của người dân thuộc địa. Qua những hình ảnh này, Nguyễn Ái quốc đã đả kích sâu cay tội ác tàn nhẫn của thực dân Pháp khi chúng sẵn sàng hi sinh xương máu của những người dân vô tội để đạt được những điều mà chúng muốn, và có khi những điều đạt được ấy hoàn toàn vô ý nghĩa: tổ quốc của loài thủy quái, miền hoang vu thơ mộng, chiêc ậy của ngài thống chế…
Tiếp đến, hệ thống từ ngữ mỉa mai, giễu cợt, châm biếm được sử dụng với mật độ dày đặc. Hàng loạt các từ ngữ được để trong dấu ngoặc kép thể hiện thái độ giễu nhại của nhà văn: ‘’An- nam- mít’’, “con yêu”, “bạn hiền”, “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”,… Tác giả sử dụng rất thành công nghệ thuật gậy ông đập lưng ông bằng cách nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để bóc trần bản chất lừa bịp vô liêm sỉ của chúng. Những từ con yêu, bạn hiền, quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do nghe sao mà mỉa mai! Rồi những từ “lấy máu mình tưới vòng nguyệt quế, lấy xương mà chạm nên những chiếc gậy nghe sao mà chua xót, đắng cay!
Giọng văn của tác phẩm khi thì giễu cợt mỉa mai: (ấy thế mà, đùng một cái), khi thì chua xót, đắng cay chẳng phải người ta đã đưa họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao?… Đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc sử dụng rất thành công giọng điệu giễu nhại: Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ. Tác giả nhại lại lời của bọn thực dân nhằm mỉa mai, châm biếm cái gọi là Chế độ lính tình nguyện.
Kết hợp giọng giễu nhại là cách đưa ra liên tiếp các câu hỏi tu từ ở cuối phần II dã có tác dụng phản bác mạnh mẽ. Lời văn Nguyễn Ái Quốc đập thẳng vào bộ mặt bịp bợm của bọn thực dân. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt giả dối cũng như bản chất tàn ác của bọn quan lại luôn coi mình là quan ‘’phụ mẫu” nhưng thực chất là những kẻ giết người không ghê tay.