Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Một trong những yếu tố làm nên sức sống lâu bền trong thơ Tố Hữu chính là tính dân tộc. GS Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuẫn nhuyễn.” Ông đã kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật thể hiện. Với việc tìm hiểu tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta sẽ thấy được nỗi lòng của con người Việt Nam, thấy được bản sắc, hơi thở, tinh thần của dân tộc Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta nên tìm hiểu bài thơ tiêu biểu của ông: Việt Bắc. Bài thơ là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca
mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc.
Giải thích khái niệm : tính dân tộc…
Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác văn học. Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu trước hết được xem xét toàn diện từ sự mô tả cuộc sống và đấu tranh độc đáo của dân tộc ta, sự phác họa con người Việt Nam với truyền thống đạo đức, đặc điểm tâm lý và tái hiện phong cảnh đất nước. Bằng ngôn ngữ nghệ thuật, thể thơ và nhạc điệu mang đậm màu sắc dân tộc. Tố Hữu là nhà thơ dân tộc trong cái ý nghĩa đầy đủ và tự hào của khái niệm này. Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết là tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh màu sắc dân tộc của thiên nhiên, của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Nội dung căn bản của tính dân tộc là ở tinh thần dân tộc, tính cách dân tộc và
cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời. Về hình thức, tính dân tộc biểu hiện ở chỗ: mỗi nền văn học dân tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn của dân tộc mình.
I. TÍNH DÂN TỘC TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRONG BÀI THƠ
VIỆT BẮC
1. Con người trong cuộc kháng chiến của dân tộc:
1.1. Hình ảnh lãnh tụ - Bác Hồ:
Có thể nói, trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Tố Hữu là người có nhiều tác phẩm sâu sắc và cảm động về Bác Hồ: Hồ Chí Minh, Sáng Tháng Năm, Cánh chim không mỏi, Theo Chân Bác, Ta đi tới, Việt Bắc…những tác phẩm ấy không phải chỉ là cảm xúc riêng của nhà thơ mà còn là tấm lòng của những người con Việt Nam hướng về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, mà qua những bài thơ đó, Tố Hữu đã thể hiện tập trung những suy nghĩ, cảm xúc của mình về hình tượng Hồ Chí Minh với tất cả lí tưởng, lẽ sống, niềm vui và những ân tình cách mạng. Có lẽ chưa bao giờ trong văn học Việt Nam hình ảnh vị lãnh tụ, vị cha già kính yêu của dân tộc hiện lên như một chủ đề sáng tác chính trong thơ văn Việt Nam rõ ràng mà sâu sắc đến vậy.
Hình ảnh Bác Hồ trong bài thơ Việt Bắc là kết tinh của những tinh hoa dân tộc. Bác hiện lên thật bình dị, gần gũi và thiết tha. Tố Hữu gọi Bác Hồ là Bác, là Người và đặc biệt gọi là ông Cụ. Tiếng gọi nghe tha thiết, chất chứa bao ân tình mà gần gũi xiết bao. Không những thế Bác còn là niềm tin, là ánh sáng nâng bước và sưởi ấm lòng mỗi người trong những hoàn cảnh đen tối nhất:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Đây là hình ảnh trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ và tình cảm. Nó chứng tỏ những tình cảm thiết tha của nhà thơ đối với Bác, đồng thời ở một mức độ nhất định cũng nói lên quan niệm của nhà thơ về vai trò của Người đối với cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta.
1.2. Hình ảnh áo chàm:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Áo chàm là hình ảnh hoán dụ chỉ những người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Việt Bắc đã ca ngợi một tình cảm rất đẹp của người Việt Nam. Mười lăm năm trước họ là những người hoàn toàn xa lạ với nhau. Cuộc chiến tranh đã đẩy họ về gặp nhau tại chiến khu Việt Bắc này. Mười lăm năm một quãng thời gian không phải là ngắn, biết bao kỉ niệm biết bao những cay đắng ngọt bùi đã trải qua giờ đây đến giây phút chia tay, ai cũng bịn rịn, ai cũng nghẹn ngào. Tố Hữu đã một lần nữa cho chúng ta thấy được tính cách dân tộc của người Việt Nam “trọng nghĩa, trọng tình”. Dân tộc ta rất giàu tình cảm. Tình cảm đã làm cho con người qua cay đắng vẫn ngọt ngào, “Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn”. Tố Hữu ca ngợi tình cảm thuỷ chung, đặc điểm này có cội rễ sâu xa trong truyền thống dân tộc, lại được bồi bổ phát huy thêm trong đấu tranh cách mạng. Người dân Việt Nammang nặng tình nghĩa đối với Đảng đã hồi sinh đất nước, đem lại cuộc đời mới cho riêng mỗi người. Chính vì “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay” mà “lòng ta ơn Đảng đời đời”:
Người Việt Nam yêu quý đất nước mình, tự hào về dân tộc mình. Nghĩa tình thuỷ chung là đặc tính của dân tộc ta từ nghìn xưa đến nay. Trong đấu tranh gian khổ, tình cảm ấy lại càng ngời sáng. Những con người hầu hết đã lớn lên cùng cách mạng, luôn gắn bó với quê hương đất nước. Tác giả đã cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời sống rất đời thường nhưng cũng xiết bao gợi cảm ở chốn rừng núi xa xôi:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
Bài thơ được viết khi trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội, từ góc độ cuộc kháng chiến thành công mà nhìn lại căn cứ địa Việt Bắc, chiếc nôi của Cách mạng đầu não của cuộc kháng chiến. Bài thơ là cuộc đối thoại giữa mình với ta, ta với mình nhưng tình điệu, hơi thơ có khi cả lời thơ quấn quýt hòa quyện. Mở đầu bài thơ là câu hỏi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Mười lăm năm ấy bao nhiêu sự kiện lịch sử trọng đại của đã diễn ra, xuất
phát từ cái nôi cách mạng.
Việt Bắc hiện lên với những con người thật đẹp biết bao. Tác giả đã dùng hai
hình ảnh đối lập để nói về tấm lòng của họ:
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
“Hắt hiu lau xám” những ngôi nhà còn nghèo, còn nhiều vất vả nhưng tấm lòng của họ thì son sắt thủy chung vạn lần. Đó là hình ảnh của “người mẹ nắng cháy lưng” vẫn đang ngày đêm góp công sức của mình cho cuộc kháng chiến. Đó là hình ảnh của những con người Việt Bắc trong cuộc sống đời thường hài hòa với hình ảnh thiên nhiên:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đoạn thơ hiện lên “dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc và dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái Việt Bắc hiện lên thật thanh mảnh, dịu dàng. Cô sơn nữ một mình trong núi rừng không gợi ấn tượng buồn hiu hắt mà lại mang vẻ đẹp khoẻ khoắn vì cô hiện lên trong tư thế lao động vất vả, giản dị nhưng cũng rất thơ mộng.
1.3. Hình ảnh chiến sĩ cách mạng :
Những người chiến sĩ cách mạng đến với núi rừng Việt Bắc trong giờ phút chia ly cũng đầy tâm trạng:
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Mười lăm năm gắn bó chắc chắn sẽ có nhiều điều muốn nói nhưng giờ phút chia tay này họ chẳng biết nói gì với nhau. “cầm tay” cái cầm tay chứa chan bao tình cảm, như muốn truyền hơi ấm cho nhau. Không nói gì nhưng đã nói vạn lời. Tấm lòng của họ luôn thủy chung, son sắt:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Rời xa Việt Bắc họ ôm bao nhiêu nỗi nhớ: “từng bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, “ngày tháng cơ quan”, “lớp học i tờ”…Dẫu cuộc chiến gian khổ nhiều vất vả “Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” nhưng tâm hồn những người
chiến sĩ cách mạng vẫn:
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Lạc quan, yêu đời là bản chất tính cách của con người Việt Nam. Đó chính là nguồn sức mạnh lớn lao giúp con người Việt Nam vượt qua bao khó khăn chông gai của cuộc đời. Ân tình là vậy, thủy chung là vậy, hiền lành là vậy nhưng khi vào trận chiến, đối mặt với kẻ thù họ mạnh mẽ vô cùng:
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Những nhịp điệu đêm đêm, những điệp thanh rầm rập cùng với hình thức so sánh đã gợi tả thật hay, thật hào hùng âm vang cuộc kháng chiến thần thánh. Khí thế chiến đấu thần kì của quân và dân ta làm rung chuyển đất trời, không một thế lực nào có thể ngăn cản được.Cả một dân tộc ào ào ra trận. Và còn có sự góp sức không nhỏ của hàng chục vạn anh chị dân công:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Họ là những người đã khuân, đã vác, đã thồ hàng trăm cây số từ mấy mươi tỉnh khác nhau ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Trung đi hàng trăm ngày đường, qua hàng trăm đêm trắng dưới mưa bão của đất trời và bom đạn đem được lương thực đến tận tay các chiến sĩ. Chiến dịch Điện Biên Phủ là cả một kì công về giao thông tiếp vận mà kẻ thù không sao có thể tưởng tượng nổi. Nó hiểu làm sao nổi, ước lường làm sao hết cái giá mồ hôi của một bát gạo, một viên đạn mà nhân dân ta đã cung ứng cho chiến trường Tây Bắc.
Như vậy có thể nhận thấy, bài thơ Việt Bắc đã khắc họa hình ảnh con người
Việt Nam, những con người mang những nét đặc trưng tiêu biểu cho dân tộc Việt
Nam: thủy chung, ân tình, luôn luôn lạc quan yêu đời vượt qua mọi gian khổ và
cũng rất anh hùng, dũng mãnh trong chiến đấu.
2. Phong cảnh thiên nhiên đất nước mang bản sắc Việt Nam:
Thiên nhiên không chỉ có vẻ đẹp tự tại, không chỉ hé mở cho những tâm hồn riêng lẻ mà gắn liền với quê hương đất nước với đời sống lao động và chiến đấu, với sinh hoạt với những vui buồn của mỗi người Việt Nam. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc được xem là một trong những bức họa đẹp nhất của núi rừng con người Việt Bắc:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau. Thiên nhiên làm nền cho vẻ đẹp của con người xuất hiện. Thiên nhiên có con người thiên nhiên càng thêm hữu tình. Một bông hoa chuối rực đỏ như một ngọn lửa, cháy bùng lên giữa rừng xanh bạt ngàn xua tan đi cái lạnh lẽo giữa mùa đông giá rét. Con người bước đi hiên ngang “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Những đóa hoa mơ dệt núi rừng thành tấm thảm màu trắng tinh khôi. Con người miệt mài với công việc đan nón của mình. Mùa hạ đến, rừng phách như đổ cả hũ mực xuống bức tranh vàng rực rỡ tràn đầy sức sống, sáng bừng cả thiên nhiên và con người. Đẹp nhất có lẽ là hình ảnh ánh trăng. Bởi đó là ánh trăng của hòa bình của yên vui và hạnh phúc. Ánh trăng hòa quyện trong tiếng hát của con người.
Việt Bắc không chỉ là hình ảnh của riêng Tây Bắc. Tố Hữu nhắc đến rất nhiều địa danh, có những cái tên đã đi vào lịch sử, cắm nên những cột mốc lớn nhỏ của cuộc kháng chiến, những tên đã làm nên nội dung, linh hồn của quê hương đất nước:
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? …
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy…
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà
Niềm vui chiến thắng đến với Việt Bắc từ muôn nơi:
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Miền đất nào cũng muốn góp phần mình vào cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước giàu đẹp hơn, hùng mạnh hơn. Nhưng thiên nhiên Việt Bắc không chỉ đẹp, nó cũng khắc nghiệt: Mình đi, có nhớ những ngày ưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
II. TÍNH DÂN TỘC TRÊN PHƯƠNG DIỆN PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN
TRONG BÀI THƠ VIỆT BẮC CỦA TỐ HỮU
Nếu xét về hình thức nghệ thuật thì tính dân tộc trong nghệ thuật của thơ Tố Hữu được thể hiện ở những nét chính sau đây: ngôn ngữ, nhạc điệu, hình ảnh, thể thơ đậm đà tính dân tộc.Lối cấu tứ, kết cấu giàu sắc thái ca dao,thể thơ dân tộc được vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo.
1. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. Tính dân tộc trong ngôn ngữ được thể hiện một cách đặc sắc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Đó là ông đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo cặp đại từ nhân xưng “mình, ta” của ca dao xưa. Ở bài thơ Việt Bắc các cặp đại từ “mình, ta” được sử dụng một cách hết sức sinh động và linh hoạt mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa. Cách xưng hô “mình, ta” trong lời đối đáp vốn là cách xưng hô của những
đôi bạn tình trong ca dao tình yêu:
Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Ở đây người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến đã coi nhau như những người bạn tình, người bạn đời từng gắn bó tri kỷ suốt mười lăm năm thiết tha sâu nặng. Vì thế nhà thơ đã để cho họ xưng hô là “mình” với “ta” rất ngọt ngào thắm thiết. Trong bài thơ đã có một sự chuyển hoá giữa hai nhân vật trữ tình Mình – Ta và có sự sáng tạo của nhà thơ trên cơ sở ngôn ngữ truyền thống khi sử dụng hai đại từ này:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?
Nhưng ở những câu hỏi dồn dập tiếp theo, có một câu hỏi đọng lại nhiều băn khoăn, day dứt mà cũng rất nặng nghĩa nặng tình:
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Tố Hữu đã thêm hương sắc cho từ “mình” của ca dao, “mình” và “ta” tuy hai là một. Điều này nói lên sự gắn bó sâu nặng giữa quê hương Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến, giữa nhà thơ với chiến khu cách mạng. Phải chăng đây cũng chính là sự phân thân của chủ thể trữ tình là nhà thơ đang đắm mình trong dòng hoài niệm thiết tha:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi , mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.
Mượn cách xưng hô “mình – ta” của ca dao xưa Tố Hữu đã đem lại cho bài thơ Việt Bắc một vẻ đẹp riêng khiến cho bài thơ vừa dồi dào sắc thái trữ tình đời thường với những lời dặn dò, nhắn nhủ hứa hẹn, thề nguyền rất riêng tư, lại vừa đậm đà sắc thái dân tộc, đồng thời diễn đạt được một tình yêu rộng lớn sâu sắc, mang tính khái quát, mang yếu tố trữ tình sử thi. Đó là tiếng nói của tình yêu nước.
Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã vận dụng một cách nhuần nhị và tài tình cách nói tu từ phong phú, tế nhị mà giàu sức biểu đạt của ca dao dân ca xưa. Ngoài việc vận dụng đại từ nhân xưng trong ca dao ông còn trở về với cội nguồn dân gian của dân tộc bằng cách mượn ý những câu ca dao, tục ngữ hay sáng tạo những câu thơ theo hơi hướng ca dao. Câu thơ: “Mình về mình có nhớ không / Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” lấy ý từ câu tục ngữ quen thuộc: “Uống nước nhớ nguồn”. Thơ ca dân gian hay viết về nỗi nhớ nhung, Việt Bắc của Tố Hữu cũng vậy:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Nhớ từng bản khói cùng sương…
Nhớ từng rừng nứa bờ tre…
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng…
Nhớ những cảnh quân đi điệp điệp trùng trùng, nhớ một buổi họp Trung ương, lớp học i tờ, một vầng trăng thu…Đó là tất cả những kỉ niệm đáng nhớ trong kháng chiến nên nó có gì đó gần gũi với nỗi nhớ da diết đến cháy lòng.
Nhớ nhung là một trạng thái tình cảm thường xảy ra mà ai cũng có thể bắt gặp. Trong bài thơ Việt Bắc, nỗi nhớ đa dạng, bát ngát, mênh mông. Nó cụ thể mà bao quát, gần gũi mà thiêng liêng, tha thiết mà không bi lụy. Những câu thơ nhắc đến những địa danh của đất nước cũng gợi ta nhớ đến những câu thơ trong ca dao.
Ngoài ra, ta có thể nhận thấy ngôn ngữ trong thơ Tố Hữu là ngôn ngữ giản dị đời thường gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân ta. Không có những điển tích, điển cố những sáo ngữ, tất cả cứ như từ cuộc sống ào ạt vào trang thơ mà
“thơ” đến lạ kì:
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Những củ sắn lùi, bắp ngô, bát cơm, chăn sui…những điều bình thường giản dị thậm chí “xoàng xĩnh” của cuộc sống tưởng rằng không bao giờ được đem vào thơ nhưng vẫn được Tố Hữu lựa chọn. Như vậy, có thể nhận thấy, ngôn ngữ trong bài thơ Việt Bắc nói riêng và trong thơ Tố Hữu nói chung là ngôn ngữ của dân tộc được bắt nguồn từ cội nguồn văn học dân gian Việt Namvà từ cuộc sống đời thường. Thế nên, nó dễ làm rung động trái tim con người bởi đó là ngôn ngữ của dân tộc, tiếng Việt của người Việt
Nam.
2. Thể thơ:
Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu như lời đối đáp của một đôi trai gái lúc xa nhau. Lục bát là thể thơ dân tộc, nó ăn sâu bắt rễ trong nhân dân mang cốt cách thuần túy Việt Nam. Đơn vị cơ bản của nó là một khổ thơ (gồm hai câu, một câu lục và một câu bát)chiếm hai dòng thơ với số tiếng (chữ) cố định mười bốn chữ có thể có từ hai đến hàng nghìn câu thơ. Tố Hữu đã vận dụng điêu luyện sáng tạo thể thơ lục bát, mang âm điệu dịu dàng duyên dáng của ca dao dân ca. Tiếng hát tiếng ngâm lời ru đã cất cánh cho thơ Tố Hữu bay đến mọi miền của đất nước. Tố Hữu là nhà thơ cách mạng phát triển thơ trữ tình điệu nói trong lĩnh vực thơ chính trị công dân đưa tiếng nói thơ ca cách mạng vào trong thơ, nâng tiếng nói tâm tình đời tư thành tiếng nói tâm tình chính luận. Trong bài thơ tác giả sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất: mình, ta để bộc lộ thái độ, tư tưởng, tình cảm. Thể thơ lục bát với những ưu thế của nó đã giúp tác giả chuyển tải được những tình cảm thiết tha của cả người đi và kẻ ở trong buổi tiễn biệt. Những câu thơ như những lời hát ru vọng lên từ thủa ấu thơ làm người đọc mãi không quên:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? …
3. Nhạc điệu:
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc còn thể hiện ở nhạc điệu, cách gieo vần. Giáo sư Đặng Thai Mai nhận xét: “Tố Hữu là nhà thơ đã vận dụng âm điệu và âm hưởng của tiếng Việt một cách hết sức tài tình.”Âm điệu thơ của Tố Hữu có đặc trưng riêng đó là sự ngọt ngào, tha thiết. Nó mượt mà, uyển chuyển, đằm thắm như lời ru của mẹ bằng lối đối đáp ân tình. Chất nhạc ngoài tài nghệ phối thanh còn ở cách gieo vần. Một nhà thơ giàu từ ngữ và am tường sâu sắc luật thơ. Có thể nói rằng nhạc điệu là yếu tố đi liền với ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói: “Tố Hữu có một hơi thơ dân tộc trong âm điệu”. Có được điều ấy bởi lẽ Tố Hữu là nhà thơ có biệt tài trong việc phối hợp các âm thanh, từ ngữ, tiết tấu, vần điệu của ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên một ngôn ngữ thơ rất giàu nhạc điệu, có thể chứa đựng cảm xúc dân tộc, thể hiện được tâm hồn dân tộc qua từng giai đoạn cách mạng. Nhưng nhạc điệu trong thơ Tố Hữu là nhạc điệu sống mãi với lòng người, làm rung động cả trái tim và khối óc người nghe. “Điệu dân tộc Tố Hữu đã biết đặt quả tim dân tộc sau âm thanh là có cả một tâm hồn” – Xuân Diệu. Chính vì vậy mà nhạc điệu trong thơ Tố Hữu mãi ngân nga trong lòng tâm hồn tác giả. Bởi “Thơ là đi giữa nhạc và ý, rơi vào cái vực ý thì thơ sâu nhưng lại dễ khô khan. Nếu rơi vào vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say lòng người nhưng không khéo lại nông cạn” Việt Bắc là điệp khúc của nỗi nhớ:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Chính nhạc điệu đã làm cho các kỷ niệm trở nên ngân nga, trầm bổng réo rắt, thấm sâu vào tâm tư. Những yếu tố làm nên chất nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu lục bát rất chuẩn về thanh luật mà còn ở nghệ thuật tiểu đối được sử dụng với tần số cao trong các câu thơ. Nó không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc động nỗi lòng sâu kín bồi hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương xứng về cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ. “Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù; Miếng cơm / mối thù; Trám / măng; Hắt / son; Nhớ / mình; Tân / đa”. Những hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ sóng đôi lối đối xứng tiểu đối, nó mang vẻ đẹp cổ điển uyên bác. Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thể tách riêng ra bởi sự thâm thúy, hàm súc:
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa
Đại từ “mình”, “ta” vốn được sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay được Tố Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái ngầm ý hai ta là một đã rõ. Nhưng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ mình: “Mình đi, mình có” là chỉ người về, “nhớ mình” là chỉ người ở. Câu hỏi đầy ý nhị mà sâu kín: Mình quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó. Cũng như ở phần sau, Tố Hữu lại nhấn theo lối bồi thấn trong câu thơ trả lời khẳng định sắt son.
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. “mình” vừa là bản thân vừa là ta, “mình” cũng là người thân thiết có thể xem như chính mình vậy. Đại từ nhân xưng được sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá khiến Việt Bắc cất lên như tiếng lòng đồng vọng bản hoà âm tâm hồn của kẻ ở người đi. Như vậy, biệt tài của Tố Hữu là ru người trong nhạc, đánh thức con người bằng ý thơ và chế biến ý tưởng cách mạng thành thức ăn của tâm hồn.
4. Hình ảnh thơ:
Đến với thơ Tố Hữu, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống dân tộc, gần gũi với cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân.Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận xét: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh”. Bút pháp quần chúng ấy đã góp phần làm nên sắc thái dân tộc đậm đà trong thời Tố Hữu. Đó là hình ảnh trám bùi, măng mai, cảnh trăng lên đầu núi, bếp lửa nhà sàn…hết sức nồng ấm và luôn ăn sâu trong tâm khảm của con người Việt Nam:
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Có lẽ trước đó trong thơ Việt Nam, những hình ảnh hết sức quen thuộc với cuộc sống hằng ngày, tưởng như chẳng có gì đáng nói, lại đi vào thơ nhiều như vậy. Tất cả đã ùa vào thơ Tố Hữu một cách tự nhiên thoải mái để tạo nên một không khí dân tộc đậm đà. Và điều đáng nói hơn là dưới ngòi bút miêu tả tài tình của nhà thơ, chúng đã trở thành những hình tượng thơ sinh động, giàu xúc cảm đem đến cho người đọc những xúc cảm sâu xa. Thơ Tố Hữu là thơ viết cho đại chúng, và điều làm nên “bút pháp quần chúng” trong thơ ông không chỉ vì những hình ảnh ấy quen thuộc, dễ hiểu, giản dị mà còn vì nó rất giàu sức biểu cảm cho nên dễ lắng sâu và lưu lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc.
Targo từng nói: “Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình trước thế giới.”. Tố Hữu đã làm được điều đó hơn nữa đã làm một cách rất xuất sắc. Trên những trang thơ của ông mà tiêu biểu là bài thơ Việt Bắc là hình ảnh của thiên nhiên, con người Việt Nam. Những con người nghĩa tình, thủy chung son sắt dù trải bao khó khăn gian khổ vẫn luôn lạc quan, hướng về tương lai. Những con người Việt Nam hồn hậu, hiền lành nhưng rát anh dũng trong chiến đấu. Đó là hình ảnh đất nước Việt Nam tươi đẹp với núi, với sông với những tên đất, tên miền mang hồn thiêng của dân tộc nhưng cũng khắc nghiệt, chứa đầy bao hiểm nguy. Đọc Việt Bắc, ta có cảm giác như được nghe những lời ru từ thủa nhỏ của bà của mẹ bởi nhịp thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại. Bởi ngôn ngữ bắt rễ từ văn học dân . Bởi những hình ảnh thơ gần gũi, thân thương nhưng cũng rất đỗi nên thơ. Tố Hữu thực sự đã mang hồn thiêng núi sông, tâm hồn dân tộc lên những lời thơ Việt Bắc. Bài thơ xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.