PHÂN TÍCH ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
I. MB: - Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiờng” (1940), đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Sau CM thơ của HC vắng bóng trên diễn đàn thi ca một thời gian khá dài. Đến giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại, dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
- Bài "Đoàn thuyền đánh cá" được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sỏng” (1958). Bài thơ khắc hoạ nhiều hỡnh ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
II. TB:
*Bài thơ được bố cục theo trỡnh tự thời gian, không gian chuyến ra khơi của đoàn thuyền, gồm 3 phần:
- Phần 1 (2khổ đầu): cảnh đoàn thuyền ra khơi
- Phần 2 (5 khổ tiếp theo): cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
- Phần 3 (khổ cuối): hỡnh ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.
Bài thơ đó tạo ra một khung cảnh khụng gian và thời gian rất đáng chú ý:
- Khụng gian rộng lớn bao la với mặt trời, biển, trăng, sao, mây, gió;
- Thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bỡnh minh, cũng là thời gian của một chuyến ra biển rồi trở về của đoàn thuyền đánh cá: mặt trời xuống biển, cả trời đất vào đêm, trăng lên cao, đêm thở, sao lùa… rồi sao mờ, mặt trời đội biển nhô lên trong một ngày mới. Điểm nhịp thời gian cho công việc của đoàn thuyền đánh cá là nhịp tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ.
a. Cảnh hoàng hôn trên biển và cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi:
* Cảnh hoàng hôn trên biển được miêu tả bằng một hỡnh tượng độc đáo.
“Mặt trời xuống biển như hũn lửa
Sóng đó cài then đêm sập cửa”.
- Với sự liên tưởng so sánh thú vị, qua biện phỏp so sỏnh và nhõn hoỏ đặc sắc, Huy Cận đó miờu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật kỳ vĩ, tráng lệ như thần thoại. Đó là buổi hoàng hôn thật rực rỡ, huy hoàng, tráng lệ, gần gũi, ấm áp đầy sức sống: Vũ trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng hiền hoà gối đâu nhau chạy ngang trên biển như những chiếc then cài cửa. gợi sự gần gũi như ngôi nhà thân quen, gợi sự bỡnh yờn đối với người dân chài. Phác hoạ được một bức tranh phong cảnh kỳ diệu như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim nhạy cảm.
*Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thỡ con người bắt đầu làm việc.
- Màn đêm mở ra đó khộp lại khụng gian của một ngày. Giữa lỳc vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thỡ ngược lại, con người bắt đầu hoạt động “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi – Câu hát căng buồn cùng gió khơi”. Sự đối lập này làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả.
- Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân đó xuống đáy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, mỗi ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sỏnh ngược chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả.
- Hỡnh ảnh “cõu hỏt căng buồm” - cánh buồm căng gió ra khơi là ẩn dụ cho tiếng hát của con người cso sức mạnh làm căng cánh buồm. Nó vừa khoẻ, vừa lạ lại vừa thật. Câu hát là niềm vui, niềm say sưa hứng khởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc.
+ Ở đây tác giả tả khí thế của đoàn thuyền đó ra khơi qua hỡnh ảnh cõu hỏt căng buồm cùng gió khơi. Đó là một ẩn dụ hay, biến cỏi ảo thành cỏi thực -> khí thế phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền và niềm vui, sức mạnh người lao động trên biển, làm chủ cuộc đời đang chinh phục biển khơi.
b. Cảnh đánh cá trên biển dưới trời trăng sao. Tỏc giả sỏng tạo hỡnh ảnh đẹp: Thiên nhiên và con người.
*Thiờn nhiờn ở đây là: Mây, gió, trăng sao chủ động hoà nhịp với cuộc sống lđ của người dân chài. Gió làm bánh lái, trăng làm buồm, trăng gừ nhịp thuyền xua cỏ vào lưới…
+ Thiên nhiên ở đây là biển. Biển khụng chỉ giàu mà cũn rất đẹp. Biển đẹp một cách thơ mộng. Khi màn đêm bắt đầu buông xuống, trời khuya dần, trăng bắt đầu lên, chúng ta có thể hỡnh dung giữa khụng gian bao la súng nước, giữa ánh sáng rất dịu dàng, mờ ảo, mơ hồ của ánh trăng trên biển, lúc ấy biển mang màu sắc thật nên thơ. Nó lấp lánh, dịu dàng, thanh thoát. Biển được so sánh như lũng mẹ bao la ụm ấp chở che ru vỗ người dân làng chài tự bao đời: Biển cho ta cỏ ….thủa nào.
+ Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long là hỡnh ảnh nhõn hoỏ đẹp. Đêm được miêu tả như một sinh vật đại dương: nú thở. Tiếng thở của biển đêm chính là ánh sao lùa sóng nước, hoà với tiếng gừ thuyền trong nhịp điệu hối thúc của đêm tàn… Nhưng tưởng tượng của nhà thơ được cắt nghĩa bằng bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm. Đây là một hỡnh ảnh đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa ánh sao trời nơi đáy nước chứ không phải bóng sao lùa sóng nước. Đây là một hỡnh ảnh lạ - một sỏng tỏc nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận khiến cho cảnh thiên nhiên sinh động. Tất cả làm nên một bức tranh hoà nhịp kỳ diệu giữa thiên nhiên và con người lao động.
-Thiên nhiên ở đây cong là những đàn cá: rực rỡ, lấp lánh như một đêm hội.
“Cá nhụ, cá chim cùng cá đé,
................................................
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”.
Huy Cận đó ngợi ca sự giàu cú của biển cả bằng cỏch liệt kờ tờn của cỏc loài cỏ khỏc nhau: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé - cá song lấp lánh đuốc đen hồng”. Chim, thu, nhụ, đé là những loài cỏ quý ở vùng biển nước ta, những loài cá mang lại giỏ trị kinh tế lớn cho ngành thuỷ sản Việt Nam.Vẻ đẹp của biển hoà cựng với màu sắc của muụn loài cỏ trờn biển. Huy Cận sử dụng một loạt cỏc tớnh từ chỉ màu sắc: lấp lánh, đen hồng, vàng choé. Tất cả tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và đầy chất lóng mạn. Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hỡnh ảnh ẩn dụ độc đáo. Tuy nhiờn Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé lại là hỡnh ảnh đẹp nhất. Ánh trăng in xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chéo.
*Hỡnh ảnh con người:
-Được miêu tả qua hỡnh ảnh con thuyền: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng….”,
+ Hỡnh ảnh núi quỏ, hoỏn dụ, cỏc động từ mạnh cho thấy: con thuyền đánh cá hay chính là những con người lđ vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây qua cái nhỡn của nhà thơ trở nờn lớn lao, kỳ vĩ và ngang tầm vũ trụ. Một con thuyền đặc biệt có gió là người cầm lái, cũn trăng là cánh buồm -> gợi sự nhịp nhàng, hoà quện của đoàn thuyền với biển trời.
+ Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để dũ bụng biển. Công việc đánh cá được dàn đan như một thế trận hào hùng -> Gợi sự khéo léo như nghệ sĩ của người dân chài và tâm hồn phóng khoáng, dũng cảm chinh phục biển cả.
=> Như vậy, tầm vóc của con người và đoàn thuyền đó được nâng lên, hoà nhập vào kích thước của thiên nhiên vũ trụ. Khụng cũn cỏi cảm giỏc nhỏ bộ lẻ loi khi con người đối diện với trời rộng, sông dài như trong thơ Huy Cận trước cách mạng. Hỡnh ảnh thơ thật lóng mạn, bay bổng và con người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đó trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên.
- Con người xuất hiện qua tiếng hát căng tràn mặt biển, gọi cỏ vào.
“Ta hỏt bài ca gọi cỏ vào,...
+ Tiếng hỏt gợi sự thõn thiết, gợi niềm vui, gợi sự phấn chấn yêu lao động. Đó cũn là tiếng hỏt ngợi ca cuộc sống mới, tiếng hỏt ngợi ca khớ thế lao động hang say, tiếng hát ngợi ca cuộc đời...
- Đặc biệt là tư thế khoẻ khoắn của người dân chài: “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng…
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.
+ Câu thơ như tạo nên hỡnh ảnh đẹp như tạc vào biển cả mênh mông tư thế khoẻ khoắn, mạnh mẽ của người dân chài ăn sóng nói gió, gợi lên khí thế lao động hăng say, khẩn trương của người lao động trên nền trời đang sáng dần, ửng hồng. Từ “bạc”, “vàng” vừa gợi màu sắc sáng đẹp, vừa gợi sự quý giỏ, giàu cú của biển ban tặng con người cần cù, dũng cảm.
+ Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng tạo một sự nhịp nhàng giữa lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ. Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh bỡnh minh.
c. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở vềkhi bỡnh minh lờn:
- 4 câu cuối đó dựng lờn quang cảnh kỳ vĩ về cuộc chạy đua của con người (đoàn thuyền) với mặt trời.
+ Hỡnh ảnh cõu hỏt lại mở đầu cho khổ thơ: “Câu hát căng buồm với gió khơi”. Như vậy, câu hát đó theo suốt cuộc hành trỡnh của ngời dõn chài. Câu hát mở đầu lúc họ bắt đầu lên đường ra khơi, và khi trở về lại những câu hát ấy. Cấu trỳc lặp: như một điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương. Có lẽ câu hát lúc ra đi là câu hát lạc quan tin tưởng khi trở về con thuyền sẽ đầy ắp cá tươi, cũn cõu hỏt lỳc trở về là cõu hỏt vui sướng trước thành quả lao động sau một đêm vất vả.
+ Khụng chỉ cú hỡnh ảnh cõu hỏt được lặp lại ở khổ cuối, ta cũn thấy hỡnh ảnh mặt trời cũng xuất hiện. Nếu khổ đầu là mặt trời của hoàng hôn thỡ đây là mặt trời của bỡnh minh. Bỡnh minh bỏo hiệu một ngày mới, bỏo hiệu một sự sống sinh sụi nảy nở, là sự khởi đầu của những niềm vui, niềm hạnh phỳc mà người dân chài có được sau một chuyến hành trỡnh rất vất vả và cực nhọc.
+ Đặc biệt ở khổ thơ cuối có một hỡnh ảnh rất hay, rất hoành trỏng và lóng mạn: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Đoàn thuyền ở đây sánh ngang với hỡnh ảnh mặt trời. Huy Cận đó lấy một sự vật bộ nhỏ, bỡnh dị để ngầm so sánh với hỡnh ảnh vĩ đại của thiên nhiên: “Mặt trời”. Hỡnh ảnh nhõn hoỏ, núi quỏ -> sức dồi dào, vẫn hăng say mạnh mẽ sau một đêm lao động vất vả của người dân chài. Nói như vậy là tác giả đó làm nổi bật tư thế của những con người lao động, bởi nói đoàn thuyền nhưng thực chất là nói đến người dân chài, đoàn thuyền ở đây là một hoán dụ để chỉ người ngư dân. Họ trở về trong một tư thế sánh ngang với vũ trụ, thậm chí trong cuộc chạy đua với thiên nhiên họ đó chiến thắng. Chính những con người lao động ấy đó chiến thắng thiờn nhiờn và làm chủ thiờn nhiờn.
+ Khi mặt trời ló rạng, một ngày mới bắt đầu cũng là lúc đoàn thuyền trở về bến: “Mặt trời đội biển nhô màu mới – Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ta lại bắt gặp một hỡnh ảnh mặt trời khỏc, khụng phải của thiờn nhiờn mà của muụn ngàn mắt cỏ lấp lỏnh trong buổi bỡnh minh. í thơ phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca, bản anh hùng ca lao động. Đó là niềm vui chiến thắng, niềm vui đủ đầy khi được mùa cá, niềm vinh quang của người lao động rất bỡnh dị, nhỏ bộ. Nú làm nổi bật tư thế làm chủ vũ trụ của những con người lao động.
- Huy Cận khắc hoạ đậm nét đẹp khoẻ khoắn của người dân chài (qua câu hát…) và vẻ đẹp giàu có của biển khơi qua kết cấu đầu đuôi tương ứng.
III.KB: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” có âm hưởng vừa khoẻ khoắn, sôi nổi, vừa phơi phới, bay bổng. Lời thơ dừng dạc, õm điệu thơ như khúc hát say mê hào hứng với chữ “hát” lặp đi lặp lại 4 lần, khiến bài thơ như một khỳc ca – khỳc ca của tỡnh yờu lao động.
Bài thơ là khúc ca sảng khoái của người lao động đánh cá, thể hiện niềm phấn khởi trước những thành quả lao động của mỡnh. Hỡnh ảnh con người hiện lên trong bài thơ là hỡnh ảnh conngười mới làm chủ thiên nhiên, nhiệt tỡnh lao động sản xuất để làm giàu cho tổ quốc, gắn với biển cả quê hương.