Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Em hãy làm sáng tỏ nhận định: "Một trong những nội dung quan trọng của văn học trung đại Việt Nam là thể hiện lòng yêu nước sâu sắc''

''Một trong những nội dung quan trọng của văn học trung đại Việt Nam là thể hiện lòng yêu nước sâu sắc''. Dựa vào các tác phẩm, đoạn trích văn học'' Hịch tướng sĩ'', '' Chiếu dời đô'','' Nước Đại Việt ta'' của tác giả Trần Quốc Toản, Lí Công Uẩn, Nguyễn Trãi, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên
3 trả lời
Hỏi chi tiết
3.409
2
1
Chu Thiên Ri ( TRang ...
05/08/2018 15:35:46

Tình cảm yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử văn học dân tộc. Tình cảm đó được thể hiện mãnh liệt trong những lời tâm huyết của những nhà lãnh đạo đất nước từ xa xưa. Ta có thể kể đến những văn bản tiêu biểu như “Chiếu dời đô” của Lí Thái Tổ, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn.

Chiếu dời đô ra đời khi Lí Thái Tổ mới lên ngôi. Nhà vua mong muốn đất nước có một kinh đô đàng hoàng to rộng đặng bề phát triển đất nước. Đó là lí do vì sao ông đã phê phán và chỉ ra việc đóng đô ở vùng Hoa Lư đã không còn phù hợp nữa: "Cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi". Hoa Lư là vùng có địa thế hiểm trở, khi tiềm lực phát triển chưa đủ mạnh thì nó hợp với chiến lược phòng thủ. Nhưng đến đời Lí thì đất nước đặt ra nhu cầu phát triển, cho nên đô thành phải dời chuyển ra nơi có địa thế khác. Không chỉ cỏ lí lẽ, Lí Công Uẩn bày tỏ cả tấm lòng mình: “Trẫm rất đau xót về việc đó". Tình cảm của một ông vua luôn hướng về vận mệnh, sự tồn vong của giang sơn xã tắc khiến người đọc cảm động.

Bởi tấm lòng đau đáu nghĩ đến một mảnh đất thiêng có thể phù trợ cho việc phát triển đất nước, nhà vua đã nhìn ra thế đất của thành Đại La. Đó là nơi có vị thế thuận lợi về nhiều mặt, về mật địa lí, tác giả phân tích rõ: Nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi", bốn hướng đều thông thoáng lại ở thế "nhìn sông dựa núi" vững vàng, "địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng". Trên địa thế ấy, dân cư sẽ tránh được lụt lội mà "muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi". Thuận lợi về mặt địa lí như vậy sẽ kéo theo những thuận lợi về thông thương, giao lưu: "Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước“. Nơi định đô mới này sẽ đáp ứng được vai trò là đầu mối trung tâm của kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước.

Trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc TOẢN, tấm lòng yêu nước lại được thể hiện trực tiếp qua nhiều phương diện.

Tác giả lột tả sự ngang ngược và tội ác của giặc: "Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!". Qua những câu văn đó, bộ mặt của quân giặc được phơi bày đồng thời tác giả cũng bày tỏ thái độ căm thù, khinh bỉ cực độ của mình đối với bọn chúng. Điều đó được thể hiện đậm nét qua việc tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ: lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,... ; các hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ: uốn lưỡi cú diều - sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó - bắt nạt tể phụ.

Sau khi tố cáo tội ác củạ giặc, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ lòng yêu nước, căm thù giặc của mình, có thể xem đây là đoạn văn hay nhất của bài hịch: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng." Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết: quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. Uất hận trào dâng đến cực điểm khi tác giả bộc lộ thái độ của mình đối với kẻ thù: chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Vị tướng đã tự xác định một tinh thần hi sinh hết mình cho đất nước: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng. Qua đoạn văn này, hình tượng người anh hùng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì đất nước được khắc hoạ rõ nét. Những lời tâm huyết, gan ruột của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi và một thái độ xả thân, chấp nhận hi sinh vì non sông xã tắc.

Chẳng những vậy, tấm lòng yêu nước của vị đại tướng đáng kính còn được thể hiện sâu đậm qua tấm lòng của một chủ tướng đối với binh lính của mình: "Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, (...) lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.'' Đó thật là tấm lòng phụ tử đáng cảm động vậy!

Có thể nói, tấm lòng yêu nước của các tác giả được thể hiện qua hai văn bản “Chiếu dời đô” của Lí Thái Tổ, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn” rất đa dạng, nhiều vẻ khác nhau song đều tựu chung ở mong muốn đất nước an bình, phát triển trù phú. Tấm lòng đó chẳng những được thể hiện một cách cảm động qua hai văn bản mà còn được hai nhà lãnh đạo kì tài chứng minh bằng những đóng góp thực tiễn cho lịch sử phát triển hào hùng của dân tộc.

So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc - bài thơ “Sông núi nước Nam” - thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.

Trong phần văn bản “Nước Đại Việt ta”, tác giả sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt ta. Các từ như: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,... Bên cạnh đó, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hoá,...). Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.

Với tư cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định lí tưởng yêu nước, thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
2
My
05/08/2018 15:39:59
Trong suốt dòng chảy văn học Việt Nam,chủ đề yêu nước luôn đóng một phần rất quan trọng .Đặc biệt,một trong những nội dung quan trọng của văn học trung đại Việt Nam là thể hiện lòng yêu nước sâu sắc. Có thể thấy rất rõ qua các tác phẩm văn học'' Hịch tướng sĩ'', '' Chiếu dời đô'','' Nước Đại Việt ta'' của tác giả Trần Quốc Toản, Lí Công Uẩn, Nguyễn Trãi.
Ba áng văn: Chiếu dời đô của Lí Công uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và: Nước Đại Việt ta (trích Bình Ngô đại cáo) của Nguyễn Trãi là sản phẩm tinh thần của ba thời đại khác nhau: Lí, Trần, Lê, nhưng lại gặp nhau ở một điểm chung nhất. Đó là khát vọng độc lập và khí phách Đại Việt!

Dân tộc Đại Việt đã trải qua một thời kì dài đau thương đầy máu và nước mắt – thời kì đen tối của cảnh mất nước, nô lệ. Đau thương chất chứa trong tim mỗi người dân con Lạc cháu Hồng biến thành niềm khát khao độc lập tự do đến cháy bỏng. Niềm khát khao độc lập tự do cháy bỏng ấy trở thành sức mạnh quật cường quét sạch bè lũ cướp nước. Độc lập tự chủ đã giành được từ đầu thế kỉ X, nhưng sóng chưa yên, bể chưa lặng, quân thù vẫn ngày đêm dòm ngó giang sơn Đại Việt. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, dân tộc ta đã phải đương đầu với các thế lực ngoại xâm hùng mạnh bậc nhất của thời đại. Ý chí độc lập tự do kết tinh từ truyền thống bất khuất của mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước vẫn sục sôi mãnh liệt trong tâm hồn dân tộc Đại Việt. Khát vọng độc lập đã trở thành lí tưởng của thời đại, là tấm gương phản chiếu xã hội. Văn học thời kì này đã phản ánh được khát vọng cao đẹp của dân tộc.
Buổi đầu mới giành độc lập, đất nước ta còn chưa cường thịnh. Trong mấy chục năm mà đã thay đổi sự trị vì tới ba vương triều. Các triều đại Đinh, Tiền Lê số vận ngắn ngủi thực là đau xót! Sự suy vong nhanh chóng của các vương triều là tiếng chuông cảnh báo về sự tồn vong của dân tộc, của quốc gia. Không thể để kẻ thù có cơ hội đặt lại nền thống trị. Thành quả của hơn một ngàn năm đấu tranh kiên cường bền bỉ của bao thế hệ lẽ nào lại để mất? Không những phải giữ yên giang sơn bờ cõi mà còn phải đưa đất nước ta phát triển hùng cường. Làm thế nào để cho Đại Việt phát triển thành một quốc gia hùng mạnh? Đó là nguyện vọng của một vị hoàng đế và cũng là nguyện vọng của muôn dân trăm họ. Ý nguyện của nhân dân đã thôi thúc hoàng đế Lí Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La.

Trong Chiếu dời đô Lí Thái Tổ đã bày tỏ rõ: …Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu của Thương, Chu, cứ đóng yến đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đô.

Huống gì thành Đại La, kinh đô củ của Cao Vương: ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, đã đúng ngồi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ có nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bổn phương trời đất cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Nếu như khát vọng độc lập trong Chiếu dời đô thể hiện ở nguyện vọng xây dựng một đất nước phồn thịnh, với sự trị vì của các đế vương muôn đời thì ở Hịch tướng sĩ, khát vọng ấy lại được biểu lộ bằng tinh thần quyết chiến, quyết thắng giặc thù. Cả bài hịch sục sôi một tinh thần sẵn sàng xả thân vì nước: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng. Trần Quốc Tuấn đã mài sắc ý chí chiến đấu của ba quân tướng sĩ bằng cách thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước, căm thù giặc trong họ, thức tỉnh lòng tự tôn và ý thức dân tộc trong họ, chỉ ra cho họ thấy trách nhiệm của kẻ làm tướng cũng như nghĩa vụ của bề tôi; cao hơn nữa là trách nhiệm của một người dân trước sự tồn vong của đất nước. Tinh thần quyết chiến, quyết thắng giặc thù trở thành tư tưởng chủ đạo của bài Hịch và của cả thời đại nhà Trần. Tinh thần ấy đã tạo nên sức mạnh để ta đập tan một đạo quân xâm lược hùng mạnh bậc nhất lúc bấy giờ.

Từ ý nguyện về một đất nước hùng mạnh, đến ý chí quyết chiến thắng giặc thù, và nay, thành chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt là sự kế thừa và tiếp nối một khát vọng cao cả luôn ôm ấp trong tim người dân đất Việt.

Và đây, chân lí ấy được Nguyễn Trãi khẳng định:

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Bên canh việc phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường, các áng ván còn nêu cao khí phách của dân tộc Đại Việt đang và đã trên đà lớn mạnh.

Ngay từ buổi đầu xây nền độc lập, khí phách dân tộc đã bộc lộ rõ. Đó là bản lĩnh, là tư thế của một dân tộc dám hiên ngang đứng giữa đất trời. Chỉ có bản lĩnh ấy, khí phách ấy mới dám dời đổi kinh đô từ một nơi có địa thế che chắn của núi rừng hiểm trở, ra nơi đồng bằng bốn bể trông vắng: địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng (Chiếu dời đô). Thật là kiên cường.

Khí phách kiên cường ấy là khí phách của một dân tộc đang trên đà lớn mạnh.

Và khí phách Đại Việt càng trở nên kiên cường hơn trong tinh thần dũng cảm xả thân vì nước: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng, trong bản lĩnh: xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, coi lũ giặc như những loài cầm thú. Tư thế của Trần Quốc Tuấn và dân tộc ta trong: Hịch tướng sĩ là tư thế của một con người, một dân tộc đứng trên đầu thù, mà xốc tới, sẵn sàng nghiến nát kẻ thù của mình: Có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt ở Cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Thật là oai hùng!

Có thể nói: Hịch tướng sĩ là một bản hùng ca lẫm liệt của dân tộc, là hào khí Đông A âm vang đến ngàn đời.

Bản lĩnh và khí phách trong: Nước Đại Viết ta cũng ngang tàng lẫm liệt không kém. Nguyễn Trãi khẳng định vì thế của Đại Việt ngang hàng với các cường quốc lớn ở phương Bắc:

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Kiêu hãnh, tự hào về một dân tộc hào kiệt, đời nào cũng có. Càng kiêu hãnh hơn bởi tư thế của một dân tộc là tư thế của người chiến thắng:

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đàng giết tươi Ô Mã.

Đặc biệt, ở đoạn sau của bài Cáo, khí phách anh hùng của một dân tộc anh hùng càng bộc lộ rõ ở khí thế tiến công như vũ bão, rung trời, chuyển đất:

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
(Bình Ngô đại cáo)

Khiến cho quân giặc phải bạt vía kinh hồn đến mức kẻ lê gối dâng cờ tạ tội, kẻ trói tay để tự xin hàng, kẻ xéo lên nhau để chạy thoát thân…

Ra đời trong hào khí chiến thắng, cả dân tộc đang ca khúc khải hoàn, Bình Ngô đại cáo cũng tràn đầy cái hào khí ấy. Hào khí của một dân tộc đã chiến thắng và đã lớn mạnh!

Càng đọc kĩ ba áng văn, ta càng hiểu rõ vì sao nó có sức rung động lòng người đến thế. Sức truyền cảm ấy được tạo nên từ tình cảm sục sôi của các tác giả. Chính khát vọng độc lập và khí phách Đại Việt đã làm nên vẻ đẹp tinh thần hiếm có của ba áng văn chương kiệt tác này.
1
3
My
05/08/2018 15:41:46

Cảm hứng chủ đạo của vãn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là cảm hứng yêu nước. Tình cảm yêu nước sôi nổi, nồng nàn của dân tộc Đại Việt trong tiến trình lịch sử oai hùng đấu tranh dựng nước và giữ nước đã chi phối và tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học để rồi kết tinh nên ba áng văn chương bất hủ: Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.

Đọc kĩ ba áng văn chương kiệt tác này, ta cảm nhận sâu sắc tấm lòng của những con người luôn nghĩ suy, lo lắng cho nước, cho dân. Đối với họ, nỗi niềm dân nước là niềm trăn trở lớn nhất, luôn canh cánh khôn nguôi.

Vừa mới được suy tôn lên ngôi hoàng đế, chưa kịp hưởng vinh hoa phú quý của một vị đế vương, Lí Thái Tổ (tức Lí Công uẩn) đã nghĩ ngay đến việc dời đô. Dường như ý nghĩ ấy đã nung nấu trong ông từ rất lâu rồi, nay mới có dịp thực hiện. Ở đây ta cũng cần nhận thức rõ rằng, việc dời đô của Lí Thái Tổ không phải là việc làm tùy tiện theo ý riêng của mình để thỏa mãn cái thói chơi ngông với đời. Cũng không phải là hành động xuất phát từ lợi ích cá nhân, gia tộc. Mà đó là tấm lòng lo nghĩ cho nước, cho dân! Thấy việc định đô ở vùng đất hẹp Hoa Lư khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi, lòng ông xót đau lắm! Vận mệnh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân, nhà vua không thể ngoảnh mặt làm ngơ, cũng không thể buông tay bất lực, ông quyết tâm tìm chọn một vùng đất mới để xây dựng kinh đô, nhằm làm cho nước cường, dân thịnh.

Tấm lòng lo nghĩ cho nước cho dân không chỉ day dứt trong tâm hoàng đế Thái Tổ, mà còn được bộc lộ sâu sắc ở vị danh tướng kiệt xuất của dời Trần: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Là một bậc vương thân, lại là vị chủ soái thống lĩnh toàn quân, trước hiểm hoạ xâm lăng, vận mệnh dân tộc đang ngàn cân treo sợi tóc Trần Quốc Tuấn vô cùng lo lắng. Nỗi căm giận quân giặc, sự đau xót trước cảnh đất nước bị sỉ nhục, tàn phá vò xé trái tim ông, trào dâng sôi sục trong ông: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

Làm sao ông có thể không lo lắng khi sáu mươi vạn quân Mông Cổ đang lăm le ngoài biên ải. Chúng là một đội quân cuồng bạo tinh nhuệ lại có bề dày kinh nghiệm chinh chiến! Trong hàng ngũ các vương thân quý tộc, đã có những tư tưởng dao động cầu hoà. Thế mà các tướng dưới quyền ông vẫn có kẻ hoặc bàng quan thờ ơ, hoặc sa vào những thói ăn chơi hưởng lạc tầm thường vô bổ. Càng nghĩ, vị chủ tướng càng thấy lo lắng và đau lòng!
Nỗi niềm dân nước với Nguyễn Trãi càng trở nên sâu đậm! Nó không chỉ là niềm trăn trở, mà trở thành lẽ sống của ông, thành lí tưởng mà ông tôn thờ:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Những tấm lòng vì nước vì dân ấy, khiến ta xiết bao xúc động và cảm phục.

Tình cảm yêu nước của họ không chỉ dừng lại ở việc lo nghĩ cho nước cho dân mà đã phát triển thành một khát vọng lớn lao: Khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất và hùng cường.

Từ sự đau xót vì triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, đến quyết tâm dời đô về vùng đất thiêng Đại La nhằm làm cho nước cường dân thịnh, dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ, muôn vật phong phú tốt tươi, đất nước tồn tại lâu dài với sự trị vì của để vương muôn đời há chẳng phải là khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất và hùng cường của vị hoàng đế đó sao?

Nếu như khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường ở Lí Thái Tổ thể hiện ở việc quyết tâm dời đô, thì ở Trần Hưng Đạo, lại biểu thị bằng ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc thù, ở ý chí sẵn sàng xả thân vì nước dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.

Để giành thế áp đảo cho tinh thần quyết chiến, quyêt thắng, Trần Quốc Tuấn đã khéo động viên khích lệ tướng sĩ. Một mặt, ông chỉ ra cho họ cái nỗi nhục của kẻ làm tướng phải hầu quân giặc mà không biết tức, chỉ ra cho họ thấy cái nỗi ân tình sâu nặng mà ông và triều đình dành cho họ để họ nghĩ suy và báo đáp. Mặt khác ông vừa nghiêm khắc phê phán những thói bàng quan, thờ ơ, sự ham chơi hưởng lạc của tướng sĩ, vừa chân tình chỉ bảo cho họ thấy những sai lầm mà họ mắc phải. Tất cả nhằm kích thích lòng tự tôn dân tộc, lòng tự trọng của kẻ làm tướng mà xông ra chiến trường giết giặc.

Còn đối với Nguyễn Trãi khát vọng ấy đã trở thành chân lí độc lập dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Càng yêu nước bao nhiêu, càng tự hào và tin tưởng về dân tộc mình bấy nhiêu!

Tuy nhà Lí mới thành lập và vẫn còn non trẻ, nhưng từ sâu thẳm trái tim mình, hoàng đế Thái Tổ vẫn vững tin ở thế và lực của đất nước cho phép họ đàng hoàng định đô ở một vùng đất rộng mà bằng, cao mà thoáng. Kẻ thù vẫn đang dòm ngó Đại Việt, nhưng họ tin vào khả năng của mình có thể chiến thắng kẻ thù, giữ yên giang sơn bờ cõi, để cho để vương muôn đời trị vì đất nước. Từ bài Chiếu toát ra một niềm tự hào cao độ về bản lĩnh và khí phách Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.

Cũng vẫn với niềm tin ấy, Hưng Đạo Vướng khẳng định với tướng sĩ rằng có thể “bêu đầu Hốt Tất Liệt ở Cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ờ Cảo Nhai”, và rồi xã tắc của ông sẽ mãi mãi vững bền, nhân dân sẽ đời đời hạnh phúc, tiếng tốt sẽ mãi mãi lưu truyền.

Niềm tự hào Đại Việt được biểu hiện tập trung cao độ ở Nguyễn Trãi.

Ra đời cách chúng ta hàng thế kỉ, mà tinh thần yêu nước bất khuất của cha ông trong ba áng vặn chương cổ đại này, vẫn còn nồng nàn mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư