Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nghệ thuật giải phóng con người khỏi biên giới của chính mình, nghệ thuật còn xây dựng được con người

1: Nghệ thụât giải phóng con ngừơi khỏi những biên gíơi của chính mình. Nghẹ thụât còn xây dựng con ngừơi hay nói đúng hơn là làm cho con ngừơi tự xây dựng đựơc chính mình. Tíêng nói văn nghệ Từ vịêc xgiải thích nhận định hãy víêt về 1 tác phẩm trong chương trình ngữ văn 9 đã giúp em xây dựng mình. 2: vẻ đẹp ngôn từ nghệ thụât trong Truỵên Kìêu của nguỹên Du
3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
6.208
2
3
Nguyễn Thành Trương
27/02/2018 09:10:44

Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, có giá trị về nhiều mặt. Một trong các giá trị nghệ thuật Truyện Kiều là về ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong Truyện Kiềq có sự kết hợp giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác học.

Trong Truyện Kiều ta thấy Nguyễn Du vận dụng nhiều ngôn ngữ. Ta bắt gặp không ít câu rất hồn nhiên gần với khẩu ngữ:

– Bảy giờ mới rõ tăm hơi

Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!

– Đừng điều nguyệt nọ hoa kia

Ngoài ra ai có tiệc gì với ai.

Những câu thơ không kém phần sâu sắc:

Trăm năm tính cuộc vuông tròn

Phải dò cho kỹ ngọn nguồn lạch sông.

Được xây dựng như một chiêm nghiệm từ cuộc sống bình dị hàng ngày của nhân dân với ngôn ngữ, thành ngữ vuông tròn và không gian ngọn nguồn lạch sông, tỉnh, dò. Không có gì xa lạ với chúng ta mà sao qua cách sử dụng tài tình sáng tạo của Nguyễn Du nó mang một ý nghĩa sâu sắc vô cùng về một quan niệm nhân đúng đắn.

Ta bắt gặp trong ca dao hình ảnh, cách nói:

Chàng ơi phụ thiếp làm chi

Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói làng.

Đến Truyện Kiều của Nguyễn Du cách ví von so sánh đó được thể hiện:

Thiếp như hoa đã lìa cành

Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.

Cách vận dụng thành ngữ một cách sáng tạo:

– Lo gì việc ấy mà lo

Kiến trong miệng chén có bò đi đâu.

– Rằng: nàng muôn dặm một thăn

Lại mang lấy tiếng dữ gần lành xa

– Cũng là mướp đắng mạt của một phường

– Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Ta có thể kể ra rất nhiều ví dụ trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân trong đời sống hàng ngày. Điều này cho ngôn ngữ, Truyện Kiều trở nên thân thuộc gần gũi với nhân dân và mang đậm tính dân tộc.

Mặt khác ngôn ngữ trong Truyện Kiều cố tính bác học, là ngôn ngữ cố chất cổ điển. Với cách sử dụng từ ngữ trau chuốt điêu luyện. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều điển tích, sử dụng các từ Hán Việt làm cho nó cố tính bác học. Có thể nói các điển tích điển cố đó là rất nhiều:

– Phải từng trên bộc trong dâu

Thì con người ấy ai cần làm chi

– Keo loạn chắp mối tơ thừa mặc em.

– Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.

….

Các từ ngữ Hán Việt được dùng khéo léo làm cho lời thơ thêm trang trọng: dạ đủi, tình quân, bồ liễu, xuân huyên, tấc vàng, trướng đào, tri ăm, hoàng hôn, hoa khôi, nhãn tiền, quan tái, quan san,…

Ngôn ngữ Truyện Kiều đầy sức lay động, thuyết phục đến mức không thể nào thay thế được

Ngôn ngữ trau chuốt điêu luyện tài tình trong truyện Kiều đã vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp:

– Long lanh đáy nước in trời.

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.

– Cỏ non xanh rợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

– Dưới trăng quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu lập lèo đơm bông

Dưới cầu nước chảy trong veo

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Ta thấy ngôn ngữ Truyện Kiều đầy hình ảnh mang những nét đẹp sinh động sống động đầy màu sắc trang nhã.

Trong Truyện Kiều ta bắt gặp nhiều hình ảnh ẩn dụ so sánh ví von. Tạo cho câu thơ giàu hình ảnh giàu sắc thái biểu cảm.

Một đặc sắc trong cách nói đó là luôn lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người của cuộc sống. Chính vì vậy sự vậy luôn được diễn đạt bằng cách nói từ những hiện tượng thiên nhiên.

Để nói về người con gái, Nguyễn Du nói đến hoa, liễu.

Nặng lòng xót liễu vì hoa

Đó là tấm lòng thương xót, yêu vì người con gái mềm mại như cây liễu, đẹp như hoa. Hay cách nói năng của người con gái cũng được diễn đạt bằng vẻ đẹp của thiên nhiên:

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

… Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Chính ngôn ngữ ẩn dụ được vận dụng một cách sáng tạo khiến cho ngôn ngữ thơ ý nhị mà sâu sắc.

Trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng rất nhiều cách so sánh khác nhau: hơn kém, ngang bằng…

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn.

So sánh giữa hai con người với nhau.

Lấy hai vật để nói về con người với ý ngang bằng:

– Cũng phường buôn thịt bán người.

– Cũng là mướp đắng mạt của một phương.

– Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

– Lửa tân càng dập càng nồng.

Biện pháp nhân hoá được thể hiện trong Truyện Kiều.

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

Ngôn ngữ trong Truyện Kiều là ngôn ngữ mang tính ước lệ giàu tính chất tượng trưng..

Nói về nỗi buồn là nói về hoàng hôn, chiều tà:

Buồn trông cánh cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Lấy thiên nhiên để thể hiện dòng trôi chảy của thời gian:

Sen tàn ác lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.

Hay:

Sắn, ngô cành bích đã chen lá vàng

Ta còn thấy một thành công trong ngôn ngữ Truyện Kiều là ngôn ngữ chính xác mà không thể thay thế nó bằng ngôn ngữ khác:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi bèn cho chị lạy rồi 8ẽ thưa.

Cậy, chịu và lạy ở đây tưởng như không hợp với văn cảnh nhưng thực ra nó chính xác mà không thể thay thế.

Có những loại ngôn ngữ chính xác đến mức chỉ một từ mà có thể diễn đạt được tính cách của nhân vật một cách hoàn chỉnh. Nó nói lên được bản chất của nhân vât.

Ví dụ như chữ tót để nói lên thô lỗ, vô học của Mã Giám Sinh:

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.

Chữ nhờn nhợt để diễn tả Tú Bà:

Nhác trông nhờn nhợt màu da

Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao.

Chữ mặt sắt chỉ Hồ Tôn Hiến:

Trông lên mặt sắt đen xì

Đó là ngôn ngữ ám sát nhân vật, thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du.

Có thể nói ngôn ngữ trong Truyện Kiều là một vấn đề rất thú vị mà chúng ta có thể khai thác trên nhiều bình diện. Ngôn ngữ Truyện Kiều đầy sức lay động, thuyết phục đến mức không thể nào thay thế được. Nguyễn Du đã sử dụng và phát triển, sáng tạo ngôn ngữ có sức sống lâu bền, hoàn hảo nhất.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
2
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
27/02/2018 09:11:45
2

Nói tới Nguyễn Du là nói tới một hiện tượng vô song của văn học Việt Nam. Với “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”, Truyện Kiều đến bây giờ vẫn là mẫu mực cho nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Đoạn trích “Trao duyên” có thể được xem là một minh chứng cụ thể cho tài năng ngôn ngữ bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du.

Vấn đề sử dụng ngôn từ bao giờ cũng được quan tâm hàng đầu của người cầm bút. Nhà văn chỉ có thế gửi gắm những suy nghĩ, những quan điểm của mình qua ngôn ngữ. Không rèn câu, luyện chữ thì không thế tạo ra những tác phẩm có giá trị. Nhưng những từ ngữ cầu kì, gọt rũa một cách không cần thiết lại trở nên vô duyên và sáo rỗng. Chính vì vậy để ngôn ngữ thăng hoa cần đến cả cái “tài” và cái “tâm”.

Ngôn ngữ nghệ thuật hay còn gọi là ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ văn học đòi hỏi phải có tính gợi hình, gợi cảm. Đó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ để đạt được giá trị nghệ thuật - thẩm mĩ cao.

Cũng như các phong cách ngôn ngữ khác, ngôn ngữ nghệ thuật trước hết đảm bảo chức năng thông tin. Gia đình Kiều gặp cơn tai biến. Bao ngày tháng êm đềm. hạnh phúc bỗng chốc trở thành ảo ảnh xa xôi. Kiều buộc phải bán mình chuộc cha, gác lại mối tình đầu vừa mới chớm nở với chàng Kim. Trong hoàn cảnh đó, nàng đã trao duyên cho em là Thúy Vân, mong Thúy Vân giúp nàng làm tròn nghĩa tình với Kim Trọng. Những chi tiết ấy, người đọc chỉ biết được khi tiếp cận với tác phẩm, qua lớp ngôn từ. Nhưng Truyện Kiều hấp dẫn người đọc không phải ở nội dung mà nó thông báo. Hơn bao giờ hết, Nguyễn Du đã để lại cho văn học dàn tộc những trang thơ tuyệt tác. Nếu Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho thơ nôm thì Nguyễn Du là người đưa nó đến đỉnh cao. Ngôn ngữ Truyện Kiều trong sáng, giản dị mà tinh tế. Nỗi đau khổ, dằn vặt của Thúy Kiều, sự xót xa cay đấng cho thân phận, sự nuối tiếc một tình yêu, sự băn khoăn cảm thấy có lỗi với chàng Kim..., tất cả những tâm trạng đó đã được Nguyễn Du miêu tả rất thành công. Bởi lẽ ông hoàn toàn nhập thân vào nhân vật, đồng cảm và thấu hiểu. Chẳng phải thế mà Mộng Liên Đường chủ nhân đã nhận xét: “Nguyễn Tố Như viết Kiều như có máu rỏ trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy”.

Vẻ đẹp ngôn ngữ trong đoạn trích trước hết thể hiện ở tính hình tượng. Đó là khả năng ngôn ngữ gợi lên những hình ảnh làm các nhân vật như chuyển động và hiện hữu như ngoài đời. Chỉ với hai câu thơ:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Tác giả không những khắc họa được cử chỉ, hành động của Kiều mà còn thể hiện được suy nghĩ, ý nguyện của nàng. Thúy Kiều là chị nhưng khi nhờ em lại dùng từ “cậy”. Kiều lại dùng từ “chịu” chứ không dùng từ “nhận” để hỏi ý kiến Thúy Vân. Đó hẳn không phải là cách dùng từ “ngẫu hứng”. Thúy Kiều hiểu rằng việc nàng sắp nói ra là một điều hệ trọng mà Thúy Vân khòng có quyền lựa chọn. Và Nguyễn Du đã để nàng kể lại câu chuyện ấy... Chuyện tình yêu vốn của riêng hai người nên khi phải kể cho người thứ ba, Thúy Kiều đã cố lược di những chi tiết rườm rà. Đó là sự tế nhị của một người con gái sâu sắc, Nguyễn Du đã truyền tải điều đó như thế nào? Chỉ với hai hình ảnh: “quạt ước”, “chén thề”, tác giả đà vẽ nên một không gian tình ái mà chỉ Kiều và Kim mới biết, chỉ “vầng trăng vằng vặc giữa trời” là nhân chứng. Rồi “chiếc vành với bức tờ mây”, hay “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”... những đồ vật ý nghĩa tưởng chừng rất giản đơn ấy đã gợi dậy trong Kiều những kỉ niệm mãnh liệt của thời yêu thương. Và dường như chúng khiến Kiều không còn đủ sáng suốt. Nàng “Trao duyên” cho Thúy Vân nhưng “tình” thỉ không.

“Duyên này thì giữ, vật này của chung”.

Kể cả khi Kiều nghĩ đến cái chết, thì tình nghĩa ấy vẫn không thôi rực cháy:

“Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghi trúc mai”...

“Bồ liễu”, “trúc mai” vốn là những hình ảnh tượng trưng quen thuộc trong văn thơ bác học. Nó xuất hiện trong câu thơ mang lại tính hàm súc. Cũng một nghĩa là đền đáp tình cảm của Kim Trọng nhưng câu thơ còn gợi lên cả dáng điệu mảnh mai. yếu ớt của Kiều, cả mối tình hai người vun đắp.

Tác giả không nói với chúng ta về sự đau khổ, không nói về tình yêu thiết tha của Thúy Kiều nhưng tiếng kêu: "Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!” đã nói lên tất cả. Kim Trọng với Kiều đã không đơn thuần là người yêu mà là một đức lang quân, một người chồng mà nàng trao thân gửi phận. Vị trí của Kim Trọng trong trái tim nàng thật vô cùng to lớn.

Cứ hiện lên trên từng cầu chữ một bóng dáng tội nghiệp, vật vã của nàng thiếu nữ xinh đẹp mà bạc phận. Cứ hiện lên trong trang thơ những giọt nước mắt đắng cay cho thân phận của nàng Kiều. Điều mà chúng ta cảm nhận được chính là do tính hình tượng của ngôn từ nghệ thuật và tính truyền cảm của nó. Hẳn rằng Nguyễn Du cũng đã khóc rất nhiều cùng nhân vật, hẳn rằng nhà thơ đã xót xa đau khổ rất nhiều. Để bây giờ trở thành “người cho máu" nói như En-xa Tri-Ô-Iê, làm rung động tâm hồn bạn đọc nhiều thế hệ. Chắc chắn rằng không chỉ có một Nguyễn Du mà còn có muôn triệu con người cùng chung nhịp đập với tác giả và nhân vật của ông. Thương cho cuộc tình duyên của Kiều, lại càng thấm thía những điều:

“Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”

Càng căm ghét xã hội mà con người phải chịu tước bỏ những giá trị tinh thần đẹp đẽ, thiêng liêng nhất chỉ về thế lực “cường quyền” và “đồng tiền”.

Vẻ đẹp ngôn ngữ trong đoạn trích còn thể hiện ở tính cá thể hóa. Cả đoạn trích là lời Thúy Kiều cùng những giằng xé nội tâm đau đớn. Kiều tỏ ra là người sâu sắc, có ý chi khi trao duyên cho Thúy Vân. Nhưng rồi nàng lại chìm sâu vào dòng tâm tưởng với những hồi ức, với viễn cảnh tương lai và bi kịch tinh thần, để rồi sau tiếng gọi tưởng chừng đứt ruột “Ôi, Kim lang, hỡi Kim lang!”. Nàng hoàn toàn khủng hoảng, sụp đổ vì nỗi đau đứt ruột:

“Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng”

Nguyễn Du rất tài tình khi khắc họa nhân vật của mình. Một Thúy Kiều thông minh, sắc sảo, tinh tế, ý nhị nhưng nàng vẫn là một con người, một người con gái yếu đuối, một người trong lưới tình giăng mắc Trong Thúy Kiều ta thấy mọi phụ nữ, nhưng cũng lại không thể nhầm Kiều với ai khác được. Đó chính là nhờ tính cá thể của ngôn ngữ nghệ thuật. Qua đoạn trích, ta cũng phần nào thấy được phong cách nghệ thuật Nguyễn Du. Một giọng điệu rất riêng: thiết tha, đằm thắm mà chỉ Tố Như bằng ngọn gió yêu thương của tâm hồn mình mới tạo ra được.

Còn nhớ Nguyễn Du Trong Truyện Kiều từng mượn lời nhân vật khác để khen Thúy Kiều:

“Khen tài nhả ngọc phun châu

Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này ".

Thiết nghĩ lời ấy dành cho Truyện Kiều cũng hoàn toàn xứng đáng. Truyện Kiều - một hòn ngọc vô giá trong kho tàng văn học dân tộc.

0
1
Quỳnh Anh Đỗ
27/02/2018 16:22:36
Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều , người ta thường hay chú ý trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay , tinh tế thường được gọi là lối dùng từ đắt của Nguyễn Du ,cũng như cách dùng hư từ , khối lượng từ đồng nghĩa , từ có phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao , thành ngữ, tục ngữ ...Ví như hai từ đầy đặn , nở nang trong câu thơ : Khuôn trăng đầy đặn / Nét ngài nở nang khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân. Hai từ đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa ,đầy đặn như mặt trăng đêm rằm của nàng Vân , cũng như cả cái nét ngài minh bạch ,rõ ràng , uốn cong thanh tú của nàng mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận , của cuộc đời nàng . Hai chữ thua , nhường trong câu thơ Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu da dùng để chỉ thiên nhiên và cũng chính là tạo hoá sẽ chịu thua mái tóc mây, dài, xanh mượt, màu da trắng như tuyết để nhường bước cho nàng đi trên con đường bằng phẳng , không hề có chông gai .
Hay như chữ thông minh trong câu Thông minh vốn sẵn tính trời dùng để nhấn mạnh trí tuệ thiên bẩm của nàng Kiều mà nhiều người cho rằng đó là một nhãn tự nhờ cách nhà thơ đưa từ này lên đầu câu , nó không chỉ nhằm khắc hoạ một tính cách mà là cả một nhân cách . Kiều đẹp sắc sảo, mặn mà - Một vẻ đẹp vừa rực rỡ , vừa hấp dẫn , rất có hồn , điều đó đã quá rõ rồi. Nhưng Kiều chiếm được cảm tình nơi bạn đọc không phải vì cái vẻ sắc nước hương trời ,cùng tài năng hiếm có cuả nàng , mà chủ yếu là phẩm cách tuyệt vời và một trí tuệ hơn người . Trong tác phẩm Truyện Kiều , Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo kiểu ấy . Chẳng hạn như câu Anh minh phát tiết ra ngoài … Điều đó cho thấy ánh sáng trí tuệ chính là yếu tố nổi bật trong tài hoa của Thuý Kiều .
Còn như từ não trong câu Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân . Ở đây , Nguyễn Du đã sử dụng từ não rất chính xác .Nội hàm ý nghĩa của từ này diễn đạt nỗi buồn đã có sẵn tự trong lòng . Nó không chỉ đơn thuần là sầu , buồn , là những từ diễn đạt nỗi buồn trên sắc diện con người mà là não (não lòng , não nuột) . Âm thanh của từ ngữ này dường như xoáy sâu vào tâm can người đọc . Bởi lẽ , khúc nhạc tiêu tao của thiên bạc mệnh ấy đã từng khiến cho biết bao người rung cảm, sầu não theo từng khúc nhạc não nề . Nó đã từng khiến cho Kim Trọng nao nao lòng người , Thúc Sinh phải tan nát lòng và cho cả trái tim vô tình, sắt đá của quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến cũng phải cảm thương mà rơi châu nhỏ lệ . Cung đàn bạc mệnh của Kiều đã trở thành một hình tượng nghệ thuật thể hiện tâm hồn đa sầu, đa cảm và số phận bi thương của Kiều là vì thế . Cả câu Não người cữ gió tuần mưa, thì từ não cũng được dùng với ý nghĩa như vậy .
Nhiều người cho rằng Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đắt . Đắt vì nhiều khi chỉ một chữ thôi đã có thể lột tả được bản chất bên trong của con người . Đó là trường hợp câu thơ Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao mà nhà thơ dùng để khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh lúc đến hỏi Kiều về làm vợ . Một kẻ đã ngoài tứ tuần mà Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao thì thật nực cười và kỳ cục đến không thể chấp nhận được. Bởi nhẵn nhụi là từ ngữ người ta thường dùng để chỉ độ trơn , bóng , láng của đồ vật , chứ không phải dùng để chỉ tính chất trang nhã , lịch sự của con người . Còn từ bảnh bao thường dùng để khen trẻ em có quần áo đẹp lại dùng cho Mã Giám Sinh thì lại có ý chế giễu , mỉa mai . Một kẻ đã nhiều tuổi nhưng lại cố ý tô vẻ , tỉa tót thì lại trở nên kệch cỡm , giả tạo và có phần trai lơ , đàng điếm .
Đặc sắc nhất vẫn là cách dùng từ trong câu Ghế trên ngồi tót sỗ sàng - một cử chỉ vội vàng , khiếm nhã khiến Nguyễn Du phải hạ ngay một từ sỗ sàng . Cử chỉ ấy không phù hợp với một người đi hỏi vợ và lại càng không đúng với phẩm cách văn hoá của một giám sinh . Nó qúa bất ngờ so với sự chờ đợi của người đọc, quá phi lý so với vai trò của một sinh viên trường Quốc Tử Giám . Cử chỉ này là tín hiệu đầu tiên để bước đầu khẳng định bản chất của Mã Giám Sinh . Tự định vị một cách vô lễ , trịch thượng, chướng mắt trên chiếc ghế của người bề trên ( những bậc cao niên ) càng cho thấy tính chất vô học và nhất là tâm lý hợm cúa của kẻ buôn người giàu có . Chỉ một chữ tót đã phủ nhận vai trò giám sinh của gã họ Mã .
Như thế cũng chưa đủ . Cái cách cò kè thêm bớt đến cả một giờ lâu rồi mới ngã giá vàng ngoài bốn trăm thì Nguyễn Du đã lột tả được bộ mặt gớm ghiếc, giả dối của Mã Giám Sinh . Hắn đã hiện nguyên hình là một gã con buôn lọc lõi chỉ cần biết một điều là làm sao mua được món hàng với giá hời nhất , chỉ cần một vốn mà có đến bốn lời là được .Chỉ với một từ cò kè rất con buôn Nguyễn đã cho ta thấy được bộ mặt tàn ác, dơ bẩn nhất của bọn buôn thịt bán người mà Mã Giám Sinh là đại diện .
Và trong đoạn đời đầu tiên của bước lưu lạc, lúc Kiều được đưa ra ở lầu Ngưng Bích . Nàng đã sống trong một tâm trạng buồn tủi , chua xót đến cực độ . Nàng đâu còn cơ hội khoá kín tuổi xuân của mình nữa . Nàng không còn giữ được chữ trinh đối với chàng Kim thì hai chữ khoá xuân lại đầy mỉa mai đối với nàng . Thực chất nàng đang bị Tú Bà giam lỏng để chờ ngày kén chồng tử tế , nhưng thực ra là mụ đang rắp tâm thực hiện một âm mưu mới .
Trong cảnh vò võ cô đơn , trơ trọi nàng đã tưởng nhớ đến người yêu . Chỉ một từ tưởng mà nói được bao điều . Nếu mơ là luôn nghĩ đến những kỉ niệm , những điều tốt đẹp về nhau ; hay nhớ cũng là nghĩ đến những điều tốt đẹp nhưng lại có thêm ý mong mỏi có ngày gặp lại thì tưởng cũng là mơ là nhớ nhưng với Kiều chỉ là tưởng , chỉ xem mối tình đầu trong trắng, ngây thơ của mình là một kỉ niệm đẹp , không dám mơ tưởng những gì xa xôi lại càng không dám mong gì ngày gặp lại .
Nhớ người yêu , Kiều cũng rất nhớ về cha mẹ . Nhưng Nguyễn Du không dùng thương hay nhớ mà lại dùng một chữ xót ở đầu câu thơ . Bởi xót đâu chỉ đơn thuần là nhớ , là thương mà còn bao hàm cả nỗi giận đời và trách mình .
Ngay cả việc sử dụng điệp ngữ buồn trông ở cuối đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích ta càng thấy Nguyễn Du không hề vô tình khi đặt chữ buồn đứng trước chữ trông .Buồn mà trông ,buồn rồi mới trông là nỗi buồn thấm sâu tự đáy lòng Kiều để rồi trông vào mọi vật nàng chỉ thấy thấp thoáng mơ hồ , tàn tạ, héo uá như chính cuộc đời của nàng cùng với nỗi lo sợ hãi hùng về một tương lai mờ mịt . Thật đúng là Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ .
Đọc Truyện Kiều ta còn bắt gặp được nhiều câu thơ , nhiều từ ngữ đặc sắc như thế . Chữ cậy em và chữ chịu lời trong câu 723 dùng thật khéo . Cụ Nguyễn Du dùng chữ cậy là tuyệt hay vì nếu thay chữ nhờ và chữ nghe lời vào thì câu thơ sẽ là Nhờ em em có nghe lời thành ra quá áp đặt , câu thơ trở nên tầm thường, nhạt nhẻo , không còn ý vị gì nữa . Vì điều Kiều sắp nói cho em biết thuộc về chữ tình nên chưa chắc em đã nhận lời cho . Do vậy , dùng cậy và chịu lời là hợp lý nhất .
Chữ tốc dùng trong câu 1.133 Tú Bà tốc thẳng tới nơi lúc sở khanh đưa Kiều chạy trốn là tuyệt khéo . Chỉ mới nghe câu thơ ấy thôi cũng đủ biết rằng mụ Tú Bà giận dữ lắm , dáng bộ hung hăng, vội vàng lắm , mặc dù điều đó nằm trong âm mưu của mụ nó hoàn toàn khác cái vẻ thong dong khi mụ dạy Kiều nghề chơi. Một chữ tốc thôi nhưng có sức mạnh lạ thường .
Như chỗ nàng Kiều vượt tường để trốn khỏi Quan Âm Các của nhà họ hoạn Cất mình qua ngọn tường hoa – câu 2.227 . Chữ cất dùng ở đấy thật tuyệt . Vì ý nó mơ hồ ,ta không thể biết được là nàng Kiều văng mình qua tường hay trèo qua tường để trốn đi .
Hay như chữ chặn trong cặp câu thơ 3.181 , 3.182 trong màn Đoàn viên : Thân tàn chặn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta . Nguyễn Du dùng chặn mà không dùng gạn . Bởi vì từ chặn được dùng với nghĩa chặn dòng đục trong quá khứ của cuộc đời Kiều . Quả thật với hoàn cảnh Kiều lúc bấy giờ thì không thể gạn đục khơi trong được . Chữ chặn vì thế mà có giá trị biểu cảm cao .
Nhìn chung, từ ngữ Truyện Kiều không chỉ hay mà còn rất đắt , rất độc đáo. Nhiều chữ được dùng đi, dùng lại rất nhiều lần nhưng với một nét nghĩa mới nên không thấy nhàm chán như 63 trường hợp sử dụng từ thân, 59 từ xuân, 14 từ ngựa , rất nhiều lần sử dụng chữ tâm và chữ tài . Ngay như chữ chút là một uyển ngữ rất khó dùng , thế mà Nguyễn Du sử dụng được 47 chữ như thế …
1. Vấn đề sử dụng từ ngữ ước lệ trong Truyện Kiều :
Là nhà thơ thiên tài của dân tộc , Nguyễn Du là người chiụ ảnh hưởng rất lớn thi pháp cổ điển về khắc hoạ , xây dựng hình tượng nhân vật . Vì thế ngôn từ ước lệ được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều . Cũng giống như người xưa , nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết - mai , trăng - hoa, mây - tuyết , thu thuỷ - xuân sơn , hoa - liễu …Làm chuẩn mực , làm thước đo giá trị , vẻ đẹp của con người . Tác giả đã dùng bút pháp cực tả tuyệt đối hoá , lý tưởng hoá nhan sắc cốt cách hai chị em Kiều . Đó là Mai cốt cách , tuyết iình thần , khuôn trăng , nét ngài , hoa cười ngọc thốt , mây thua, tuyết nhường , làn thu thuỷ, nét xuân sơn , hoa ghen, liễu hờn …Để khắc hoạ cái cốt cách thanh tao , mảnh dẻ như mai ; tinh thần trong trắng như tuyết. Một vẻ đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người một vẻ của chị em Kiều .
Tả nàng Vân kiều diễm Nguyễn Du dùng : khuôn trăng, nét ngài , hoa cười, ngọc thốt , mây thua , tuyết nhường cùng vơí một số từ nôm na như khác vời và những từ ngữ đầy đặn, nở nang vừa khắc hoạ được vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của nàng Vân , vừa như dự báo được cuộc sống sau này rất bình lặng của nàng .
Còn với Kiều , Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để bẫy vẻ đẹp của Kiều . Nhà thơ đã dùng đến 12 câu thơ để khắc hoạ về Kiều . Điều đó chứng tỏ nhà thơ đã dành cho nhân vật chính của mình một tình cảm hết sức đặc biệt . Nhiều thi liệu cổ đã được huy động để khắc hoạ bức chân dung tuyệt mỹ của giai nhân như : Làn thu thuỷ , nét xuân sơn , hoa ghen , liễu hờn … Với bút pháp lý tưởng hoá , Kiều hiện ra trước mắt người đọc bằng hình ảnh một thiếu nữ có đôi mắt trong sáng , bình lặng như mặt nước hồ thu ; nét mày uốn cong thanh tú như dáng núi mùa xuân .Thật là một dung nhan rực rỡ , sắc sảo mặn mà , vừa có duyên, vừa có hồn . Nhưng đẹp đến độ sắc nước hương trời , chim sa cá lặn , nước thành nghiêng đổ , hoa phải ghen , liễu phải hờn tất cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, đau khổ … Mười lăm năm lưu lạc chìm nổi của Kiều đã chứng minh rõ điều đó .
Là một nghệ sĩ về ngôn từ , Nguyễn Du không sử dụng những thi liệu cổ ấy một cách máy móc rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn .Nói tới nỗi buồn của người đẹp , nhà thơ gắn với những thềm hoa ,lệ hoa , rồi nét buồn như cúc , điệu gầy như mai … Nói chung , qua việc sử dụng những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ rất riêng , rất Nguyễn Du , nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc .
2. Ngôn từ thiên nhiên (vũ trụ thi ca) của Truyện Kiều .
Theo tác giả Đặng Tiến thì vũ trụ thi ca trong Truyện Kiều là một không gian với chân trời rộng . Ngoài thảm cỏ non phải xanh tận chân trời ( Cảnh ngày xuân) thì không gian còn là một vũ trụ rộng, trống,mờ xa tít tắp với vẻ non xa , tấm trăng gần ; với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Đó là một vũ trụ từ chối cuộc sống, từ chối con người -một vũ trụ mà cảnh vật bốn bề bát ngát xa trông, bên thì cồn cát nhấp nhô như sóng lượn , bên thì bụi hồng trải dài khắp dặm xa mênh mông .
Ngoài ra, trong Truyện Kiều Nguyễn Du còn sử dụng rất nhiều ngôn từ vũ trụ thi ca : Con đường khuya thì phải ngắt tạnh mù khơi , màu của rừng thu phải là màu quan san , khung trời thương nhớ phải gợn áng mây Tần xa xa , đến túp lều cỏ bên sôngTiền Đường cũng phải là Một gian nước biếc mây vàng chia đôi . Bên cạnh đó còn có những dặm vi lô hiu hắt , những bờ liễu loi thoi , những rừng phong quan tái . Rồi đến cảnh màu xanh tơ liễu bên cầu , gió cây trút lá , mấy ngàn dâu xanh xuất hiện trong Truyện Kiều những giờ phút chia phôi , những lúc bước chân ngập ngừng , những lúc tâm hồn phân tán … Dường như nhà thơ muốn thu nhận cả đất trời nhân loại bằng cái nhìn phơi trải trong hình ảnh non phơi bóng vàng , cái nhìn đo lường kích thước cuộc sống hằng ngày để xác định vị trí ,tầm sống của mình trước cuộc đời .

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×