Bác Hồ – hai tiếng sao thiêng liêng mà gần gũi, thân thương đến thế! Tinh yêu thương bao la, cao cả của Người đã làm rung động bao trái tim nhà thơ, để rồi cứ thế, những áng thơ tuyệt tác ngân vang, mang đến cho ta những cảm xúc bâng khuâng kì lạ. Đến với Viếng lăng Bác của Viễn Phương một lần nữa ta lại được sống trong tình thương bao la của Bác, được cùng chung nhịp đập con tim với tác giả để mang tấm lòng thành kính thiết tha, của niềm thương vô hạn vào lăng viếng Bác… Còn gì xúc động hơn, còn gì thành kính hơn tấm lòng của một người con miền Nam lần đầu vào lăng viếng Bác. Vị Cha già kính yêu của cả dân tộc Việt Nam, đã từng “Chỉ biết quên mình cho tất cả”, đã từng truyền cho trái tim của triệu triệu con người một tình yêu dạt dào, tha thiết. Và sau bao khát khao, bao hi vọng được gặp Người, giờ đây giây phút thiêng liêng đã đến, trái tim người con cứ thế nấc lên từng tiếng nghẹn ngào, tâm trạng hoà tan vào không gian, thời gian, hoà vào mạch cảm xúc để rồi những vần thơ vang lên, thiêng liêng, xúc động!
Ngay từ mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã giới thiệu hình ảnh người con miền Nam ra viếng Bác trong tình cảm xót xa, niềm tiếc thương vô hạn bằng những lời thơ mộc mạc, chân thành:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác ”.
Hai tiếng “con”, “Bác” nghe sao mà gần gũi, sao mà thân thương đến thế! Nhà thơ đã chọn cách xưng hô tựa như cha con, thật quen thuộc. Người con miền Nam sau bao nỗi nhớ mong, khắc khoải, tựa như nhịp đập của một trái tim yêu thương đang trong nỗi niềm thương tiếc vô hạn. Nhà thơ đã khéo léo thay từ “viếng” bằng từ “thăm” như muốn giảm nhẹ đi sự mất mát của nỗi đau. Trong trái tim của Viễn Phương hay của tất cả những người con Việt Nam, Bác luôn còn sống mãi, luôn dành tất cả sự yêu thương, sự hi sinh cao cả cho toàn dân tộc. Đắm chìm trong dòng cảm xúc xót xa, thương cảm dâng trào ấy, tác giả lại giúp ta cảm nhận được những ấn tượng đầu tiên của cảnh vật trước thềm lăng. Lăng Bác uy nghi, tráng lệ mà rất đỗi thân thương, gần gũi. Phải chăng một phần là do nơi đây, muôn loài cây tụ hội, toả hương thơm ngát? Trong đó hàng tre xanh đã trở thành một hình ảnh vô cùng thân thuộc với nhân dân Việt Nam, giờ đây đang đứng trang nghiêm bên lăng để canh giấc ngủ cho Người. Và chính bởi lẽ đó, chính bởi cảm xúc xao xuyến mà Viễn Phương đã dành hẳn ba dòng thơ tiếp theo để miêu tả hàng tre:
“Đã thấy trong sương hàng tre bất ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Nhà thơ lặng đi, trầm ngâm từ phía xa nhìn về lăng Bác và hình ảnh hàng tre thân quen đã khơi gợi bao cảm xúc, liên tưởng thấm thìa. Không phải tình cờ mà nhà thơ đã đưa hình ảnh những hàng tre xanh vào áng thơ của mình. Tre vốn là biểu tượng của con người Việt Nam kiên trung, bất khuất, đã gắn bó với nhân dân ta từ lâu đời. Bởi vậy, khi mới đứng từ xa, nhìn thấy hàng tre xanh xanh, nhà thơ đã bộc lộ cảm xúc cứ tự nhiên dâng trào bằng một tiếng “Ôi” tha thiết, ngọt ngào. Một “Hàng tre xanh xanh Việt Nam” tựa như con người kiên trung, lúc nào cũng bất khuất, không bao giờ chịu đầu hàng trước bão táp, mưa sa. Quả thật là một sự liên tưởng kì thú! Hàng tre – trong phép ẩn dụ – bỗng trở nên sinh động, gần gũi hơn, tựa như trái tim của biết bao người dân Việt Nam sẽ mãi mãi eanh giấc ngủ cho Người trong lòng thành kính vô hạn. Chỉ qua ba dòng thơ mà Viễn Phương đã đem đến cho ta biết bao cảm xúc xao xuyến, bâng khuâng, như đang cùng trái tim, cùng nhịp đập để đứng trước thềm lăng trong tình cảm sâu sắc, lắng đọng.
Và rồi nỗi niềm thành kính, biết ơn, tự hào càng chân thành, da diết khi nhà thơ nhìn mọi cảnh vật trước lăng trong trái tim nhiệt thành hướng về Bác:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
Câu thơ đã mở ra hai hình ảnh trọng thể sóng đôi đầy sáng tạo, khéo léo. Nhà thơ đã lấy hình ảnh mặt trời để nói về Bác. Cách so sánh không hề mới trong thơ ca nhưng ta lại được đến với một sự sáng tạo đầy sức thuyết phục: đó chính là hình ảnh mặt trời thật cùng với hình ảnh mặt trời trong lăng là Bác. Trong vòng xoay chuyển của thời gian, ngày ngày trôi qua, ánh mặt trời đều chiếu sáng đỏ rực, đều mang một vẻ đẹp lớn lao, kì vĩ đem lại sự sống cho vạn vật trên trái đất, trở thành hình ảnh vĩnh hằng của vũ trụ. Và đối với dân tộc ta, Bác chính là mặt trời. Chính vì con đường bôn ba suốt năm châu bốn biển đầy vất vả, khó nhọc của Bác, con đường “ra đi với hai bàn tay trắng”. Vậy mà khi trở về, Bác đã đem đến sự sống cho cả dân tộc. Bác chính là mặt trời đã dâng tặng nhân dân Việt Nam cuộc sống ấm no, hạnh phúc, là mặt trời có sắc đố của một trái tim nhiệt huyết tràn ngập tình yêu thương, vĩ đại và vĩnh hằng, cao cả mà gần gũi. Để rồi khi con người ấy ra đi, công lao, sự nghiệp của Người trở thành bất tử trong trái tim mỗi con người Việt Nam khi vào “viếng lăng Bác”. Bằng một hình ảnh thơ, Viễn Phương đã khẳng định Bác chói lọi như một mặt trời chỉ lối, soi đường cho dân ta. Ý thơ vừa ngậm ngùi lại vừa chan chứa xúc cảm tự hào biết ơn, tôn kính và ngợi ca. Thật đúng là:
“Ta bên Người, Người toả sáng bên ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”.
(Tố Hữu – Sáng tháng năm)
Vẫn trong mạch cảm xúc ấy, Viễn Phương đã có những suy nghĩ mới mẻ khi ngắm nhìn dòng người vào lăng viếng Bác. Điệp ngữ “ngày ngày” lại một lần nữa được nhấn mạnh như muốn khẳng định, cũng như mặt trời từng ngày “đi qua trên lăng” thì dòng người vào viếng Bác cũng kéo dài vô tận. Không gian đến với lăng Bác là hữu hình, hữu hạn nhưng dòng người ấy không chỉ đến với lăng bằng thương nhớ để đến với trái tim Người, một không gian vô hình, vô hạn, rất đỗi thiêng liêng, cao cả. Bằng tất cả tấm lòng thành kính của mình, những người con Việt Nam đã:
‘‘Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Viễn Phương với con mắt quan sát tinh tế của mình, đã ví từng đoàn người nối theo nhau vào lăng viếng Bác tựa như một tràng hoa thơm dâng lên Người. Hình ảnh ẩn dụ “bảy mươi chín mùa xuân” phải chăng không chỉ muốn nhấn mạnh tới bảy mươi chín tuổi đời của Bác mà còn muốn khẳng định cuộc đời của Bác đẹp như mùa xuân, một cuộc đời đã hi sinh tất cả để đem đến mùa xuân tươi đẹp cho đất nước, cho cách mạng? Và trong trái tim ta, Bác mãi là một mùa xuân đẹp nhất, vĩnh hằng nhất.
Và cái giờ phút thiêng liêng mà người con miền Nam sau bao trăn trở, khát khao nay đã đến. Trong nỗi niềm xúc động dâng trào được nhìn thấy Bác, nhà thơ thấy hình ảnh Bác thật thiêng liêng, gần gũi:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sắng dịu hiền.”
Giờ đây, đến với Bác, nhà thơ đã cảm nhận được giấc ngủ bình yên, nhẹ nhàng của Người. Vị Cha già dân tộc nằm đó mà sao tường như đâu đây, cầi tình cảm trìu mến, dịu dàng, thân thuộc vẫn còn khiến trái tim người con miền Nam phải rung động. Từ sự am hiểu về Bác, nhà thơ đã liên tưởng rất thú vị ánh đèn mờ ảo trong lăng chính là ánh sáng dịu hiền của vầng trăng. Bác đã từng rất yêu trăng, coi trăng là một người bạn tri kỉ. Dù ở bất cứ nơi đâu, trong nhà lao, trên chiến trận, tâm hồn thi sĩ của Bác vẫn mãi hướng về trăng. Và lúc này đây, ánh sáng dìu dịu của vầng trăng đang túc trực ở bên Người. Sự liên tưởng không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã miêu tả đó là “vầng trăng dịu hiền” trong lành chính là Bác. Hình ảnh của Bác có thể sánh với tất cả, những gì vĩnh hằng của thiên nhiên, của vũ trụ. Bác có lúc ấm áp, rực rỡ như mặt trời, có lúc lại êm dịu, nhẹ nhàng, trong sáng như vầng trăng thanh cao. Đến bên Bác, ta có cảm giác như được cái luồng ánh sáng ấy bao bọc, để rồi dần cảm nhận ra tình yêu thương mà Bác đã dành cho dân tộc, rất đỗi nhẹ nhàng, trìu mến mà bao la, tha thiết. Càng xúc động trước tấm lòng mênh mang “Ôm cả non sông, mọi kiếp người” của Bác, khi nhìn vào sự thật đau buồn, nhà thơ bỗng cảm thấy đau nhói khi nhận ra:
“Bác đã đi rồi sao Bác ơi! ”
(Tố Hữu – Bác ơi!)
Mặc (Ịù sự nghiệp và trái tim tràn ngập yêu thương của Bác sẽ mãi mãi sống trong lòng tất cả những người con đất Việt, như bầu trời xanh mãi mãi, bất diệt mặc dù cảm nhận được tấm lòng thành kính, biết ơn, tự hào của dân tộc Việt Nam dành cho Bác sẽ không bao giờ eạn, mà sao tác giả vẫn cảm thấy “nghe nhói ở trong tim”. Không phải “đau nhói” mà là “nghe nhói”, ta tưởng như nỗi đau chùng xuống, cả không gian trở nên một màu buồn thương, xót xa vô tận. Câu thơ ngân dài khiến người đọc chúng ta cũng cảm thấy như hoà cùng tâm trạng của tác giả để đau đớn trước sự thật Bác đã đi xa.
Đến bên Bác để khóc, người con miền Nam đã vô cùng xúc động, xót xa, thương tiếc cứ trào dâng rơi vỡ và trong những lời nguyện ước của nhà thơ trước lúc ra về:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Khi nghĩ đến giờ phút chia xa, nghĩ đến phải trở về miền Nam, trong xa cách, nước mắt nhà thơ cứ thế tuôn trào. Nỗi niềm dồn nén bấy lâu nay, nỗi nhớ nhung khắc khoải được ra viếng Bác giờ đã được in đậm trong những tiếng nấc nghẹn ngào. Bao tình thương, nỗi nhớ giờ lại càng sâu nặng hơn bởi nhà thơ sắp phải xa Bác để trở lại miền Nam yêu dấu. Và trong giờ phút xúc động ấy, nhà thơ đã có những ước nguyện hoá thân rất đỗi bình dị, khiêm nhường. Nhà thơ chỉ muốn trở thành chú chim bé nhỏ để ngày ngày hót bên lăng Bác, thể hiện tấm lòng chân thành, biết ơn của mình đối với Bác, chỉ muốn là một đoá hoa toả hương thơm ngát, được ở mãi mãi bên Người. Và một lần nữa, hình ảnh hàng tre trung hiếu lại được nhắc đến trong lời ước nguyện cuối cùng như chính là tấm lòng thành kính, thuỷ chung mà tác giả dành cho Bác, mãi sắt son, mặn nồng. Bài thơ kết lại trong những khát vọng giản dị, hết sức bé nhỏ mà mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc, lắng đọng.
Đến với Viếng lăng Bác của Viễn Phương, ta đã cảm nhận được nỗi nhớ thương vô cùng sâu sắc, thiết tha của người con miền Nam lần đầu vào lăng viếng Bác, đã cảm nhận rất rõ niềm thành kính, biết ơn, tự hào, niềm thương tiếc vô hạn của trái tim nhà thơ hay là trái tim của cả dân tộc ta dành cho Bác bởi:
“Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ.”