Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Ngữ văn - Lớp 9
01/08/2017 01:27:49

Phân tích đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán của Nguyễn Du

2 trả lời
Hỏi chi tiết
693
0
0
Nguyễn Phượng
01/08/2017 01:47:27
Đề bài: Phân tích - Bình luận đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán (trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du
Bài làm
Về bố cục của đoạn thơ, có hai phần rõ rệt. Mười hai câu đầu: Thuý Kiều báo ân, còn hai mươi hai câu tiếp theo : Thuý Kiều báo oán. Ân, oán là hai khái niệm đối lập nhau nhưng con người hành động vẫn chỉ là một. Nguyễn Du vừa phải xây dựng một nhân vật đại diện cho công lí, cho lẽ công bàng, vừa phải cá tính hoá đến mức tối đa. Nói khác đi, phải nhìn nhân vật bằng "con mắt tinh đời" (như lời Từ Hải khen Kiều ngay lần đầu gặp mặt), ta mới thấy thành công và dụng ý của Nguyễn Du trong một tình huống.

1. Cảnh báo ân:
Cảnh báo ân tuy chỉ là cảnh phụ, nhưng ngoài ý nghĩa dọn đường cho cảnh chính tiếp theo, ngoài ý nghĩa độc lập tương đối, nó vẫn làm ta hiểu được một người, người ấy không phải là Thúc Sinh mà lại là Thuý Kiều. Thúc Sinh là người như thế nào, chúng ta đã biết, Thuý Kiều càng biết rõ hơn khi bản thân trả giá "Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng". Cảnh ghen tuông trong nhà Hoạn Thư mà Kiều là nạn nhân, tuy Thúc Sinh không phải là thủ phạm nhưng chàng cũng là một nguyên nhân gián tiếp. Điều này, chính chàng thú nhận "Vì ta cho luỵ đến người". Vậy nên, trước phiên toà, khi "cho gươm mời đến", Thúc Sinh đinh ninh là người có tội, mà tội không nhỏ với Kiều. Đã đành là người yếu bóng vía "Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run" chàng khiếp sợ. Đó là một thái độ tự nhiên vốn có của người biết lẽ phải đã hối hận, ăn năn. Chàng vốn là người như thế chứ không có chủ định làm ra như thế để nghĩ rằng : "Hình ảnh tội nghiệp của Thúc Sinh có thể làm Kiều động lòng trắc ẩn không nỡ đánh người yếu thế" như có người đã hiểu. Hiểu như thế không phải là cách để cao mà là hạ thấp nhân vật Thuý Kiều, biến một tầm suy nghĩ rộng sâu thành con người hời hợt. Gọi Thúc Sinh lên trước để đền ơn, và việc đền ơn rất hậu cho chàng là dụng ý, là chủ trương của người xử án. Tuy đối thoại với chàng chỉ có sáu câu nhứng là sáu câu đáng nói. Nó hàm súc lại bao nhiêu nghĩa nặng tình sâu mà kẻ chịu ơn chưa một dịp đáp đền:
Nàng rằng : "Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không ?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân
Cần chú ý đến lời nói và giọng nói ở đây về lời nói, một tổ hợp từ gốc Hán phù hợp với sự trang trọng của kẻ đền ơn là một khía cạnh (khác hẳn với hệ thống từ ngữ sau đó nàng đối thoại với Hoạn Thư). Song, còn một khía cạnh thứ hai (mà ít người chú ý), ấy là ngôn ngữ gợi đến tình yêu, một tình yêu dang dở với chàng. Trong tiếng Việt tình vốn đi liền với nghĩa (tình nghĩa - tình chồng vợ nghĩa tao khang). Tinh (đồng nghĩa với duyên) với chàng Thúc tuy không còn, nhưng cái nghĩa dù chỉ một ngày thì làm sao mất được. Nghĩa ấy tương đương với nghĩa sinh thành, vì vậy mới có câu "Nghĩa nặng nghìn non" nghĩa mà rộng như biển Đông, cao như núi Thái Sơn, cách nói ấy tuy có ước lệ, hoa mĩ về hình thức diễn đạt nhưng tình cảm của nàng đâu phải là hời hợt. Đó là cách duy nhất mà nàng cho là phù hợp. Những từ Hán Việt nhằm cố định hoá, vĩnh viễn hoá tình yêu ấy : "Sâm Thương", "chữ tòng", "cố nhân" nhằm vào dụng ý ấy. Còn về giọng nói, Kiều vốn có một chất giọng "mặn mà", "sắc sảo" ("Kiều càng sắc sảo mặn mà"). Mặn mà với mối tình mà nàng đã một thời tự nguyện gắn bó, dù sự gắn bó ấy chỉ là một thứ bến đợi mong manh đối với con thuyền giữa mênh mông trôi dạt. Câu nói của Kiều có sự gợi khơi hơn là kể, tả. "Lâm Tri người cũ..." là một giọng nói vừa như một kí ức hiện về, vừa như một nỗi nhó xa xôi xao xuyến, bâng khuâng khó tả. Bao nhiêu là vương vấn đến nao lòng trong một câu nói đơn sơ của một người từng trải, từng trải mà vẫn hồn nhiên. Còn cái sắc sảo của Kiều chính là sự giải thoát cho Thúc Sinh ra khỏi mặc cảm của tội lỗi đã và đang hành hạ, giày vò : "Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân ?". Kiều đã hiểu cho Thúc Sinh, cho tấm lòng "cố nhân" vì dó là một cách nhìn đã "gạn đục khơi trong" của người tri kỉ. Tóm lại qua việc ứng xử với Thúc Sinh, ta có thể thấy Kiều là con người hiểu đời và hiểu người với tấm lòng vị tha chứ không bao giờ vị kỉ.
2. Cánh báo oán:
Về hình thức phân đoạn thì khá rạch ròi hai cảnh. Nhưng bốn câu cuối nói với Thúc Sinh trong cảnh báo ân nên dành cho phần báo oán. Bởi lẽ minh oan cho Thúc Sinh khi đề cập đến vợ chàng là không chỉ trò chuyện với chàng mà để dọn đường cho cảnh tiếp theo: báo oán (có người đưa nó lên phần báo án là khiên cưỡng).
Như ở trên đã phân tích, nếu việc trả nghĩa Thúc Sinh là nằm trong ý định của nàng Kiều, thì việc trừng phạt đối với Hoạn Thư còn hơn một ý định. Vì hơn một ý định, không chỉ "ăn miếng trả miếng" với Hoạn Thư, tâm sự với Thúc Sinh phải chăng nàng còn tạo sự đồng cảm sẻ chia giữa hai người "trong cuộc". Nói thì nói với chàng Thúc, mà thực chất là đối thoại với kẻ vô hình, với nhân vật thứ ba còn chưa xuất hiện. Trong đối thoại ngắn này, ý định của Thuý Kiều dường như không gì lay chuyển được. Bởi ý định ấy, cơn dông bão ấy đâu chí hình thành từ ngày một ngày hai. Nó đã nung nấu trong sự sắc nhọn ngôn từ, một phong cách lời thơ khác hẳn :
"...Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau.
Kiến hò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa".
Chỉ nội bốn câu thơ mà đã có đến hai thành ngữ dân gian : "kẻ cắp bà già", "kiến bò miệng chén", một lặp ý "quỷ quái, tinh ma", một đối lập giữa "mưu sâu" với "nghĩa sâu"... nghĩa là toàn ngôn ngữ đời thường mang tính chất văn xuôi (phá vỡ mọi ước lệ, công thức của văn chương bác học) nhằm bóc trần ý định, rạch ròi, dứt khoát, không do dự, quanh co giấu giếm cùng với cách dùng từ, giọng nói của nhân vật vừa nói với người (Thúc Sinh) vừa như tự nói với mình về cơn sấm sét do nắng hạn lâu ngày, nó phải bùng lên đầy phẫn nộ. Việc làm ấy không chỉ thế, không chí trong ý định, nó còn ở trong tầm tay với "gươm lớn giáo dài", giữa thanh thiên bạch nhật. Và việc làm ấy nếu diễn ra, nó chỉ như trong một nháy mắt, hơn nữa được sự đồng tình của bất kì ai nếu hiểu nàng và đứng về công lí.
Lúc cho gọi Hoạn Thư lên, ý định ấy vẫn là ý định. Nó còn được củng cố, bổ sung trong cái tình cảm hận thù khi phải đối mặt với kẻ đã đày đoạ nàng, một con người vô tội. Đối thoại với Hoạn Thư lúc này, nàng lại dùng một phong cách ngôn ngữ khác thường chứ không thể bình thường như với bất kì ai trong truyện. Mạch thơ được đẩy lên đến cao trào nhưng tạm thời nó đi vào một lối khác theo kiểu "vờn mồi". Hoàn cảnh găp nhau giữa hai người tuy hoàn toàn đã khác, đã thay bậc đổi ngôi, nhưng Kiều cố tinh làm như nó không hề khác, Kiều vẫn như còn ở trong nhà "Họ Hoạn danh gia" với tư cách con ở, con đòi :
Thoắt trông nàng đã chào thưa :
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây !".
Giả vờ đon đả, cung kính, thân tình nhưng đằng sau cái ngọt ngào hình thức là hàm chứa tích tụ bao nhiêu cay đắng bên trong. Cho mời gọi chủ động mà Kiều cứ làm như một kẻ vô tình bất ngờ gặp mặt. Tuy trước mặt Kiều, Hoạn Thư là một tên tội phạm sẽ bị trừng trị đáng dời nhưng miệng lưỡi nàng vẫn chào thưa, vẫn "trân trọng" gọi đúng cái danh xưng ngày trước vẫn gọi (tiểu thư). Cách tạo lại bối cảnh, không gian, ngôn từ "thưa gửi" ấy hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Hoạn Thư hẳn cũng biết thân phận của mình, kẻ "gieo gió" thì "gặt bão" ấy là một lẽ đương nhiên. Có trong đó chút mỉa mai, châm chọc cũng là sự nén lại bao uất ức, xót xa mà lúc này đây Kiều mới tự giải toả được cho mình. Nhưng dù sao, đấy cũng mới chỉ là phút giáo đầu "văn vẻ". Đây mới là giọng nói thực (chứ không phải "nói nhại" như trên) của nàng :
"...Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan !
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Cũng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều".
Bốn câu thơ nói bằng chất giọng răn đe, ít mang tính chất cá thể, cá nhân như mấy câu trước đó. Bởi lẽ Kiều tuy là nạn nhân nhưng đang ở vào vị trí cao hơn vị thế nạn nhân, nàng là một quan toà, đại diện cho công lí. Tuy là tiếng nói của công lí, nhưng từ một người bị oan ức, bị đè nén nói ra, nó vẫn có một giọng điệu riêng, ở đó có sự pha trộn công tư không dễ dàng tách bạch. Tính cụ thể của nghệ thuật, ở đây là nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du cần hiểu trong văn cảnh ấy, trong quan hộ ấy mà nó không thể trừu tượng, chung chung. Gây hận thì sẽ chuốc thù. Nhưng "gây hận" theo kiểu Hoạn Thư thì xưa nay chưa có ("Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan !"). Phải tối tăm tâm địa đến mức nào, phải tàn ác đến mức nào, người ta mới có thể đoạ đày con người đến thế. Kẻ "ra tay" ấy vẻ giới tính lại là đàn bà. Ý nghĩa điển hình cho tội ác của Hoạn Thư là ở cả trên hai phương diện ấy. Sự trừng phạt của Thuý Kiều theo quy luật "Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều" là hợp lô gích, được nhân tâm và lẽ phải dồng tình.
Nhưng ta biết sau đó, Kiều không làm theo ý định ban đầu, Hoạn Thư được tha, thì đấy lại là một thứ lô gích khác, đối lập mà thống nhất trong một nhân vật nàng Kiều. Kết cục này gây một bất ngờ lớn, một sự xôn xao trong dư luận người đọc từ đó đến nay, và biết đâu, nó cũng nằm ngoài ý định của chính Nguyễn Du vì ông trong một chừng mực nào đó đã hoá thân vào nhân vật nàng Kiều, phải giải quyết vấn đề theo quy luật khách quan vói tư cách là một người ngoài cuộc ?
Theo dõi diễn biến phiên toà, ta thấy gì ? Trước hết là sự tham sống sợ chết của kẻ tội phạm ở vào bước cùng đường, không có cách gì tránh được cái chết. Điều này không lạ, vì dù ở vào hoàn cảnh nào, Hoạn Thư cũng tham sống như ai. Sau đó là van nài, năn nỉ. Đến lúc này đây, sau phút hoảng sợ ban đầu, Hoạn Thư mới chính là Hoạn Thư. Lấy lại sự tĩnh tâm (trong hoàn cảnh khó mà tĩnh tâm), từ thế bị động, y đã chuyên sang chủ động. Chủ động nhưng phải biết điều, Hoạn Thư biết người biết mình là trong cái chừng mực tinh vi ấy "Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca". Hoạn Thư "kêu ca" những gì mà sau đó đã đảo ngược tình thế, mà Kiều phải tấm tắc : "Khen cho : thật đã nên rằng - Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời" ? Trong tám câu gỡ tội và thanh minh của Hoạn Thư - theo cách nói hiện đại bây giờ - là lập luận theo kiểu tư biện, nhưng ở vào văn cảnh ấy, nó lại rất thấu lí đạt tình. Tình, lí ở đây xen kẽ nhau khi thắt khi cởi, khi nắm khi buông rất khó rạch ròi. Cái lí ghen tuông tuy không là luật lệ nhưng lại là một thực tế vì cảnh "chồng chung" xưa nay vẫn thế ("Chém cha cái kiếp lấy chồng chung" - Hồ Xuân Hương). Nhưng ngay khi ở vào hoàn cảnh "chồng chung", Hoạn Thư cũng dã có thiện chí mở đường :
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
"Tình" như thế là rõ. Rõ rồi mà Hoạn Thư vẫn khiêm nhường nhũn nhặn xin được "nghĩ cho" thì làm sao Thuý Kiều không "nghĩ" ? Rồi cái lí được lặp lại lần thứ hai, vẫn cái lí "chồng chung" ("Chồng chung chưa dễ ai chiểu cho ai"). Rồi kèm với cái tình nhằm kêu gọi sự bao dung, che chở cho một kẻ đáng thương :
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Theo cách nói của Hoạn Thư thì việc xưa đã lỡ, đã "trót", nay chỉ còn hi vọng ở tình thương mà người y nhờ lại là "lượng bể". Ấy là chưa nói cái "khôn ngoan đến mực" của Hoạn Thư trên hai khía cạnh : một là mụ không nói gì đến tội ác nói chung, chỉ tự khoanh vùng trong một phạm vi hẹp : tội ghen tuông mà "Ghen tuông thì cũng người ta thường tình". Ghen tuông do đàn bà mà ra, nhưng thương người çùng cảnh thì cũng chỉ đàn bà mới có. Gửi gắm kín đáo hai khía cạnh trên vào lời cầu xin, phải chăng Hoạn Thư đã là người dàn bà trong muôn một "Đàn bà dễ có mấy tay". Đánh vào tình thương của một người vị tha, tình thương trong hoàn cảnh có thể còn thương một kẻ ăn năn hối lỗi, Hoạn Thư dã khơi đậy ở Kiều sự bao dung, che chở, cả sự mang tiếng vị kỉ, "nhỏ nhen". Tâm thế của Kiều trước lúc tha cho Hoạn Thư tuy có cân nhắc, lưỡng lự vài giây giữa sự trừng phạt hay không trừng phạt kẻ có tội cũng dáng "thương tình". Sức mạnh của lòng tự ái và tự trọng đã dẫn nàng đi đến kết cục cuối cùng như ta đã biết.
Trừng phạt Hoạn Thư là một khả năng rất dễ xảy ra vì điều kiện khách quan và chủ quan đã đủ. Đó là nguyện vọng của mọi người chứ không chỉ của một nạn nhân. Tiếng nói của công lí phải minh bạch, rõ ràng. Nhưng không trừng phạt Hoạn Thư, tuy công lí không được thực hiện ở cái mức thoả đáng, song kẻ phạm tội đã biết cúi đầu, lẽ phải ít nhất một lần cũng đã dõng dạc vang lên. Điều chủ yếu, cách xử lí của nàng Kiều giữ lại nơi chúng ta: một nhân vật, một con người như hiện ra bằng xương bằng thịt. Một nhân vật như Thuý Kiều không có một cách giải quyết nào cho khác hon trong hoàn cảnh đó.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng ký tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nga
08/04/2021 21:28:57

Đề tài về người phụ nữ luôn là nỗi trăn trở của các nhà thơ lớn. Không chỉ khắc họa những nét đẹp trong tâm hồn, tính cách mà các nhà thơ còn cảm nhận rõ được nỗi bất hạnh của người phụ nữ. Và Nguyễn Du đã rất thành công khi chọn người phụ nữ làm đề tài trong tác phẩm của mình với kiệt tác dựa theo cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm ở Trung Quốc đó là Truyện Kiều.

 

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích được trích trong tác phẩm đó là một đoạn trích hay và giàu cảm xúc. Bằng ngòi bút tả cảnh ngụ tình nhà thơ đã diễn tả tâm trạng của Thúy Kiều trong hoàn cảnh bị giam cầm, nỗi nhớ Kim Trọng, nhớ gia đình và đặc biệt là tâm trạng của Kiều trước cảnh vật ở lầu Ngưng Bích.

 

Mở ra trước mắt người đọc là thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích:

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

 

Câu thơ mở đầu: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân” lầu Ngưng Bích cao, đẹp, cái tên nghe cũng thật hay: Ngưng Bích. Nhưng chính nơi đây lại là nơi “khóa xuân” tức là khóa kín tuổi xuân của Thúy Kiều nàng chẳng khác nào bị giam lỏng. Đứng trên lầu cao hướng tầm mắt ra xa nàng nhìn thấy:

 

“Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.”

 

Nhìn ra xa là những phía dãy núi chạy dài ngước mắt lên trông thấy tấm trăng rất gần. Trông ra xung quanh là bốn bề bát ngát rộng lớn có những cồn cát cứ nối tiếp nhau chạy dài. Gió thổi, cuốn lên bụi hồng. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà thơ cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích hiện lên thật đẹp, sống động nó có thể là thực hay mang tính ước lệ. Cảnh được nhìn từ xa đến gần, từ cao xuống thấp nhưng lại hoang vắng rợn ngợp không một tiếng người, không có cả một tiếng chim hót. Cảnh thiên nhiên tác động đến tâm trạng của con người:

 

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

 

Từ “bẽ bàng” nói đến tâm trạng xấu hổ, tủi thẹn của nàng Kiều khi bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích. Trong hoàn cảnh cô đơn nàng Kiều chỉ có thể bầu bạn với mây buổi sớm, đèn buổi khuya nhưng hai người bạn ấy nàng chỉ có thể ngắm mà không thể tâm sự, giãi bày khiến cho Kiều cảm thấy cô đơn. Thành ngữ, cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ “mây sớm đèn khuya” chỉ về vòng tuần hoàn của thời gian.

 

Dường như thời gian và không gian đều đang giam hãm Thúy Kiều nàng không thể nào thoát ra được. “Nửa tình” là nói đến tình cảnh của Kiều bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích xa gia đình, chia tay với mối tình đầu. Còn “nửa cảnh” là nói đến cảnh thiên nhiên trong tâm trạng buồn, đau khổ nàng muốn tìm đến thiên nhiên để giãi bày nhưng nó lại hoang vắng, xa vời. Nửa tình nửa cảnh như hòa vào là một làm cho trái tim nàng đau đớn như bị chia cắt. Bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích Kiều cảm thấy cô đơn, nhớ người mình đã từng thề non, hẹn biển:

 

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trong mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

 

Nỗi nhớ Kim Trọng nàng nhớ những đêm ngồi dưới ánh trăng cùng nhau thề nguyện sẽ bên nhau trọn đời. Nàng tưởng ở quê nhà Kim Trọng vẫn mong ngóng mình trở về. Các động từ - vị ngữ: "tưởng", "trông", "chờ", "bơ vơ", "gột rửa", "phai" đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình.

 

Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ! Nàng cảm thấy hổ thẹn với Kim Trọng vì không giữ trọn lời thề năm xưa mà giờ đây không thể nào quay lại được nữa. Nhớ Kim Trọng rồi nàng lại nhớ về gia đình:

 

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”

 

Nhớ cha mẹ lại bắt đầu bằng chữ “xót” nàng xót xa khi tưởng tượng ra cảnh cha mẹ mình mỗi sớm mỗi chiều người mẹ đứng tựa cửa trông chờ con về nhưng đó là sự chờ đợi trong vô vọng. Trong lòng nàng tự hỏi “Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ chỉ hành động của người con mùa hè nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ, mùa đông trời lạnh thì ủ ấm chỗ cha mẹ nằm và giờ đây ai có thể làm việc đó thay nàng.

 

Cứ nghĩ đến điều đó mà lòng nàng cảm thấy buồn, lo lắng. Viết về nỗi nhớ cha mẹ của người con xa quê nhà thơ đã đưa vào những điển tích “Sân Lai, gốc tử” nói về việc làm của người con hiếu thảo không những phụ dưỡng sớm hôm mà còn nhảy múa cho cha mẹ vui.

 

Còn với nàng Kiều đang bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích bơ vơ trên đất khách quê người giờ đây không phụ dưỡng được cha mẹ sớm hôm thời gian cứ trôi kể cả “gốc tử đã vừa người ôm” nàng không thể làm tròn bổn phận của người con. Nghĩ đến điều này mà nàng cảm thấy xót xa ân hận nhưng với nàng Kiều ta thấy nàng đã làm tròn bổn phận khi bán mình cứu cha. Nỗi nhớ người thân rồi cũng qua đi để rồi nàng lại trở về thực tại:

 

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”

 

Trong tâm trạng buồn hướng tầm mắt về nơi cửa bể là không gian rộng lớn chỉ có trời với biển. Không gian ấy lại đặt vào thời điểm chiều hôm gợi lên trong lòng nàng nỗi nhớ quê hương nhớ về người thân yêu. Trên mặt biển rộng lớn nàng còn nhìn thấy con thuyền và cánh buồm thấp thoáng ở phía xa.

 

Câu hỏi tu từ “thuyền ai” như rơi vào khoảng không trống vắng không lời đáp lại bởi con thuyền kia cứ đi xa nàng khuất hẳn về phía chân trời xa. Nhìn con thuyền nàng liên tưởng đến thân phận mình lênh đênh trôi dạt trên đất khách quê người. Nghĩ đến mà lòng nàng lại thấy đau đớn. Đôi mắt của nàng lại hướng tới cảnh ngọn nước mới xa:

 

“Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu.”

 

Trước mắt nàng dòng nước chảy vừa mạnh vừa siết cuốn theo những cánh hoa nhỏ bé mỏng manh lúc nổi lúc chìm. Câu hỏi tu từ “hoa trôi man mác biết là về đâu” nàng hỏi hoa kia hay hỏi chính lòng mình. Nhìn cánh hoa mà nàng nghĩ đến số phận mình cũng bị dòng đời xô đẩy không biết đâu là bến bờ. Nghĩ đến mà lòng nàng lại thấy xót xa. Thay hình ảnh ngọn nước mới sa là hình ảnh nội cỏ:

 

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

 

Cảnh nội cỏ rầu rầu, từ láy “rầu rầu” gợi về sắc cỏ héo úa, rầu rĩ như bị bàn chân ai dẫm đạp. Nhìn nội cỏ ấy mà Kiều lại liên tưởng đến thân phận mình bị người đời chà đạp rồi cũng héo úa như nội cỏ mà thôi. Nghĩ đến điều đó thôi mà lòng nàng cảm thấy đau đớn. Trong tâm trạng ấy mà nàng lại nhìn thấy một màu xanh trải dài từ mặt đất tới chân trời. Từ láy "xanh xanh” gợi một màu xanh đơn điệu và tẻ nhạt khiến cho lòng nàng đã buồn lại càng buồn thêm.

 

Cảnh cuối cùng xuất hiện trước mắt nàng Kiều vẫn là không gian nơi của bể mênh mông rộng lớn. Ở đó có gió cuốn mặt duềnh tạo nên những con sóng lớn xô đập vào bờ đã phát ra những âm thanh ầm ầm. Từ láy “ầm ầm” gợi tả âm thanh nghe thật dữ dội.

 

Sóng biển kia không chỉ va đập ầm ầm mà còn là tiếng kêu như gào thét nghe thật ghê rợn. Cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ “sóng kêu” sóng biển kia hay sóng gió cuộc đời những tai ương tai họa đang đùa giỡn nhấn chìm cuộc đời con người lúc nào không hay. Nghĩ đến điều đó mà lòng nàng cảm thấy lo sợ hãi hùng.

 

Điệp ngữ “buồn trông” lặp đi lặp lại như một điệp khúc trầm buồn đứng ở đầu bốn cảnh. Cách sử dụng từ láy kết hợp với câu hỏi tu từ mỗi cảnh thiên nhiên lại diễn tả tâm trạng khác nhau của Thúy Kiều từ nỗi buồn nhớ đến đau đớn xót xa lo sợ hãi hùng. Tất cả được diễn tả tinh tế qua ngòi bút tả cảnh ngụ tình. Có thể nói rằng tám câu thơ cuối là một bước tranh tâm trạng và ngoại cảnh mà gửi gắm trong đó là sự đồng cảm, xót thương của Nguyễn Du dành cho Thúy Kiều người con gái mà ông hằng mến mộ, yêu quý.

 

Đoạn trích đã cho ta thấy được nỗi bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ họ đã phải trải qua rất nhiều đớn đau. Hãy trân trọng người phụ nữ bởi họ có quyền được yêu thương.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng bạn bè học sinh cả nước, đến LAZI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Câu hỏi Ngữ văn mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo